Sinh ra trên đất thôn Vàng, xã Kim Vực (nay là thôn 2, xã Yên Thịnh, huyện Yên Định), cậu bé Hà Tông Huân từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, có trí nhớ hơn người. Trưởng thành, học hành đỗ đạt, Hà Tông Huân kinh qua các vị trí quan trọng trong triều đình. Cuối đời, ông sống thanh nhàn nơi làng quê… Quan đại thần Hà Tông Huân không chỉ được vua Lê, chúa Trịnh nể trọng mà còn để lại danh thơm cho đời.
“Hà tướng công bi ký” ghi công trạng của quan đại thần, Bảng nhãn Hà Tông Huân ở xã Yên Thịnh (Yên Định). Ảnh: CHI ANH
Có chuyện kể rằng: Một hôm, cha sai cầm tiền đi mua quyển lịch, cậu bé Huân ra phố mượn quyển lịch xem một lượt rồi lấy tiền mua bánh ăn và trở về tay không. Cha hỏi: Lịch đâu? Huân liền thưa lại rằng: Con đã thuộc cả rồi, không phải mua nữa. Cha ông lấy làm lạ, sai người khác đi mua lịch về, rồi bảo Huân gấp lịch lại đọc, thì quả nhiên không sai một chữ nào.
Khác với những người “nổi tiếng”, điều ít ai ngờ Hà Tông Huân – con người lừng danh này lại có thuở hàn vi khá đặc biệt. Sách “Công dư tiệp ký” có chép về đoạn đời này của ông như sau: Ông là người thông minh, mẫn tiệp, nhưng lúc còn trẻ lại rất ham mê cờ bạc. Một hôm, cha vợ của ông sai người đi tìm, khi về ngang qua ruộng nhà thì ông thấy cha vợ và mấy người con trai đang làm lụng rất vất vả. Cha vợ giơ đòn lên, toan nện cho ông một trận, nhưng rồi lại không nỡ, bèn ra cho một vế đối, bảo phải lấy việc trước mắt mà đối, đối được mới tha cho. Cha vợ ông ra vế đối như sau: Học bác tài xa dự nhập tứ môn chi tuyển (Học rộng tài cao dự cả 4 kỳ thi tuyển). Ông đối lại rằng: Phụ canh tử nậu, kỳ thu bách mẫu chi công (Cha cày con bừa nên thu công cả trăm mẫu). Lời đối tuy không sắc sảo nhưng cha vợ nghe thế cũng yên lòng. Về sau, đến khoa Giáp Thìn (1724), đời vua Lê Dụ tông, ông đỗ Bảng nhãn (khoa này không lấy đỗ Trạng nguyên) khi vừa 27 tuổi. Ông được người dân gọi thân mật bằng cái tên ông Bảng Vàng, tức Bảng nhãn làng Vàng.
Sau khi đỗ đạt, ông được làm Thị thư viện Hàn lâm, sau đó làm Đốc đồng Sơn Nam (gồm các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình). Ít lâu sau lại chuyển ra trấn thủ An Quảng (Quảng Ninh). Đầu thời Lê Hiển tông (1740-1786), Hà Tông Huân được phong làm Tả thị lang bộ Hộ, rồi làm Phỏng sát sứ ở Tây đạo và Nam đạo.
Năm 1745, chúa Trịnh Doanh cho Hà Tông Huân vào nội các, hỏi việc cơ yếu. Trịnh Doanh nghe ý kiến của ông xong rất vừa ý, bèn cho làm Tham tụng trong phủ chúa. Sách “Những nhà khoa bảng” Việt Nam có chép: Thời gian này có đoàn sứ giả nhà Thanh sang hạch họe, yêu sách biên giới với ý đồ bành trướng, triều đình liền cử ông thay mặt đàm phán. Với lý lẽ sắc bén, khi nhu, khi cương, cuối cùng ông đập tan được ngụy luận của đối phương, khiến sứ giả nhà Thanh phải phục và rút lui. Tài chính trị, ngoại giao của ông phần nào đã tránh được nạn can qua cho Nhân dân.
Ít lâu sau, Hà Tông Huân lại đổi sang ban võ quan, lĩnh chức Tham đốc nhưng vẫn đồng thời làm Tham tụng. Khi trấn thủ Thanh Hóa, có quân nổi dậy chống triều đình, ông mang quân đi và nhanh chóng dẹp yên nhóm nổi dậy. Nhờ công lao này, ông được phong làm Thượng thư bộ Binh, vào triều làm Tham tụng, kiêm việc ở Quốc Tử Giám, tước Huy Xuyên hầu.
Làm quan trải qua 5 đời vua Lê – 3 đời chúa Trịnh, văn võ toàn tài, Bảng nhãn Hà Tông Huân không chỉ là quan đại thần dưới thời Lê – Trịnh, ông còn được người đời đánh giá là “người thầy lớn” đóng góp cho việc dạy học đương thời. Theo sách “Văn tài võ lược xứ Thanh”, sau 38 năm làm quan, ông dâng khải xin chúa Trịnh cho về nghỉ ngơi. Ở quê chưa được bao lâu thì vua Lê và chúa Trịnh lại triệu ông về kinh giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám và đặc cách mời ông tham gia việc triều chính. Trong thời gian này, Hà Tông Huân trực tiếp chỉ đạo việc biên soạn lại Cửu kinh (9 bộ sách Nho học) để giảng dạy ở Quốc Tử Giám, đồng thời làm giám khảo kỳ thi Hội, thi Đình để chọn nhân tài. Tính tổng thời gian dạy học của ông không dài, nhưng “Học trò của ông đều là rường cột miếu đường”.
Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú (viết vào thế kỷ 19) đã viết về Hà Tông Huân như sau: Ông bụng dạ thản nhiên, rộng rãi, không câu nệ nhỏ nhặt. Khi thi thố những việc to tát, việc gì cũng xong. Ở triều hơn 30 năm, trải làm tướng văn, tướng võ, công danh hiển hách. Lại thích tác thành người hậu tiến, học trò của ông đỗ đạt rất nhiều.
Đánh giá về việc này, Đại Việt sử ký tục biên cũng có ghi: “Lượng rộng thênh thang, nguyên lão mà đề cử người tuổi trẻ. Ngôi cao thăm thẳm, đắc thời lại nhượng cho người sau. Đó là điều các vị danh tướng cũng khó mà làm được như vậy”.
Năm 1760, tình hình Đàng Ngoài tương đối yên ổn. Ông đã 63 tuổi, xin về nghỉ, được gia thăng hàm Thiếu bảo, tước Huy quận công. Trở về quê, ông dựng một ngôi nhà bên sông Cầu Chày để khi nhàn rỗi mời các cụ trong làng đến trò chuyện, “chống gậy đi dép vui với gió xuân, gảy đàn uống rượu thưởng cùng trăng thu…” và sống nhàn hạ với mọi người trong thôn như một lão nông (Danh sĩ Thanh Hóa và việc học thời xưa). Chính đây cũng là giai đoạn mà ông làm rất nhiều thơ, văn. Trong đó, có một bài cảm tác khi tiễn bạn rời triều chính và một bài ông viết tặng riêng mình khi về với cảnh quê. Ngoài ra, các quan văn võ trong triều, hưởng ứng chí nguyện của ông đã viết nên những vần thơ, ghi vào trướng lụa, phổ vào cung đàn cất tiếng ca ngợi ông “thanh giá như vàng, phẩm chất như phượng loan”, “cái gì cũng thỏa chí cả, đúng là bậc toàn phúc ở nhân gian, chân tiên ở trên đời”.
Không lâu sau chúa Trịnh Cương lại mời ông ra làm Nguyên lão đại thần, đặc cách tham dự nghị bàn công việc triều chính đại sự. Ông mất năm 1766, hưởng dương 69 tuổi, được tôn hàm Thái phó. Với những cống hiến của ông, triều đình đã cử quan Bộ Lễ về tổ chức tang lễ, đồng thời có đôi câu đối ca ngợi với nội dung: Sự nghiệp Tam khôi thần báo mộng, văn chương bậc nhất được vua khen. Tên ông đã được ghi trong văn bia tiến sĩ ở Quốc Tử Giám (Hà Nội), và tại làng Ngọc Vực, bia ký Hà Tông Huân khắc ghi công trạng của ông, hiện là di tích lịch sử – văn hóa.
Tiếp nối truyền thống lịch sử đất khoa bảng, địa danh Kim Vực (nay là xã Yên Thịnh) từ thế kỷ 18 đã trở nên nổi tiếng với nhiều người đỗ đạt được nêu trên bảng vàng qua các kỳ thi. Số người đỗ Hương cống thời Lê ở đây là 11 người – chiếm số lượng cao nhất so với các làng khác trong huyện, chiếm tới 1/7 tổng số người đỗ Hương cống của toàn huyện. Dòng họ Hà ở Kim Vực, sau Hà Tông Huân, cả ba người con của ông đều đỗ Hương cống: Hà Tông Trạch và Hà Tông Tự đỗ năm 1759, Hà Tông Trữ đỗ năm 1762. Khoa thi năm 1752, còn có Hà Tông Thái. Khoa thi năm 1762, có Hà Tôn Bái đỗ Hương cống. Họ Hoàng ở Kim Vực cũng có 4 người đỗ Hương cống là Hoàng Nguyễn Điển đỗ năm 1725, Hoàng Tông Khuyến đỗ năm 1756, Hoàng Huy Ninh đỗ năm 1759, Hoàng Thời Mậu đỗ năm 1762. Ngoài ra, Kim Vực còn có Phạm Hà Bàn đỗ năm 1768, Lương Tốn đỗ năm 1783.
“Cùng với thời gian, đền thờ Hà Tông Huân ở xã Yên Thịnh nhiều lần bị phá hủy. Đặc biệt tấm bia “Hà tướng công bi ký” được dựng vào thế kỷ XIX cũng đã bị nứt vỡ, chữ bị bào mờ. Song, cuộc đời và sự nghiệp của ông mãi mãi được lưu danh sử sách, là niềm tự hào của Nhân dân Yên Thịnh”, ông Đỗ Văn Huy, công chức văn hóa xã, cho biết.
CHI ANH