Qua ý kiến phát biểu của các đồng chí lãnh đạo các sở, ngành tỉnh và của các địa phương, đặc biệt là ý kiến phát biểu của đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy – Chủ tịch UBND tỉnh đã làm rõ thêm những kết quả đã đạt được; những khó khăn, hạn chế còn tồn tại và những nhiệm vụ, giải pháp cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 10, Nghị quyết 11 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh trong thời gian tới.
Đối với Nghị quyết 10 về phát triển kinh tế – đô thị 3 vùng của tỉnh đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030: Qua hơn 5 năm triển khai thực hiện, chúng ta đã đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện với những điểm nổi bật:
Một là: Về công tác triển khai và tổ chức thực hiện đồng bộ, nghiêm túc và sâu rộng, đã huy động được cả hệ thống chính trị, các chuyên gia, nhà khoa học và nhân dân trong tỉnh tích cực tham gia, thể hiện sự đoàn kết, quyết tâm rất cao nhằm tạo sự đột phá trong phát triển kinh tế, xã hội và phát triển đô thị ở từng địa phương, ở mỗi vùng, đóng góp tích cực, hiệu quả cho sự phát triển nhanh và bền vững của tỉnh.
Các cấp ủy, chính quyền, đặc biệt là các địa phương của mỗi vùng đã cụ thể hóa quan điểm, mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết thành chương trình, kế hoạch và có lộ trình thực hiện cụ thể gắn với trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương nhằm thực hiện thắng lợi toàn diện các nhiệm vụ đã đề ra.
Một góc TP. Mỹ Tho nhìn từ trên cao. Ảnh: Lập Đức |
Hai là: Về kết quả thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2016 – 2020 rất phấn khởi với những con số khá ấn tượng như giá trị sản xuất của tỉnh tăng bình quân 6,6%/năm; trong đó vùng Trung tâm tăng 7,8%/năm, vùng phía Tây tăng 6%/năm và vùng phía Đông tăng 3,4%/năm.
Năm 2022, giá trị sản xuất toàn tỉnh tăng 8,1% so năm 2021; trong đó, giá trị sản xuất vùng Trung tâm chiếm 54,8%, vùng phía Tây chiếm 31,6%, vùng phía Đông chiếm 13,7%.
Thu hút vốn đầu tư phát triển toàn xã hội hơn 157,68 ngàn tỷ đồng, trong đó vùng Trung tâm thu hút 77,84 ngàn tỷ đồng, chiếm 49,4%; vùng phía Tây thu hút 61,06 ngàn tỷ đồng, chiếm 38,7%; vùng phía Đông thu hút 18,78 ngàn tỷ đồng, chiếm 11,9% so toàn tỉnh. Giai đoạn 2021 – 2022, thu hút vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 79,86 ngàn tỷ đồng, trong đó vùng Trung tâm thu hút 38,83 ngàn tỷ đồng, chiếm 48,62%; vùng phía Tây thu hút 28,29 ngàn tỷ đồng, chiếm 35,42%; vùng phía Đông thu hút 12,75 ngàn tỷ đồng, chiếm 16% so toàn tỉnh.
Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2016 – 2020, toàn tỉnh giảm còn 1,86% (vùng Trung tâm 1,53%, vùng phía Tây 1,6%, vùng phía Đông 2,52%). Năm 2022, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 – 2025 giảm còn 1,27% (vùng Trung tâm 1,23%, vùng phía Tây 1,34%, vùng phía Đông 1,65%).
Ba là: Về kết quả phát triển lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp, chúng ta đã hình thành được chuỗi liên kết, phát triển theo hướng khai thác đúng tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, của mỗi địa phương và thích ứng với biến đổi khí hậu, đảm bảo an toàn thực phẩm; mặt khác, đã liên kết phát triển theo quy mô diện tích và chuỗi giá trị có thương hiệu hàng hóa, đủ sức cạnh tranh gắn với mở rộng thị trường trên cơ sở triển khai hiệu quả Đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp của tỉnh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và Đề án Cắt vụ, chuyển đổi mùa vụ, cơ cấu cây trồng ở các huyện phía Đông của tỉnh đến năm 2025. Trong đó, xác định rất rõ, rất cụ thể:
Đối với vùng Trung tâm, tập trung thực hiện các giải pháp tổ chức lại sản xuất, ứng dụng khoa học – công nghệ, thực hiện liên kết sản xuất – tiêu thụ các sản phẩm chủ lực như thanh long, cây rau, cá bè… (đã triển khai thực hiện Đề án Phát triển cây thanh long đến năm 2025, triển khai Dự án Chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ thanh long giai đoạn 2020 – 2025 và định hướng đến năm 2030; tiếp tục phát triển ngành hàng rau có thế mạnh ở huyện Châu Thành; thực hiện các giải pháp khôi phục cây vú sữa và đẩy mạnh xuất khẩu trái vú sữa; triển khai Dự án Chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ sản phẩm gà ác và sản phẩm chim cút giai đoạn 2020 – 2025, định hướng đến năm 2030 và tiếp tục phát triển nuôi cá lồng, cá bè).
Đối với vùng phía Tây, tập trung đầu tư phát triển hạ tầng thủy lợi và thực hiện các giải pháp tổ chức lại sản xuất, ứng dụng khoa học – công nghệ, thực hiện liên kết sản xuất – tiêu thụ các sản phẩm chủ lực như: Lúa, cây sầu riêng, khóm, thanh long và cá tra… Tiếp tục hỗ trợ đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng vùng sản xuất lúa cho các hợp tác xã (theo Dự án Chuyển đổi nông nghiệp bền vững); tổ chức sơ kết Đề án Phát triển cây sầu riêng đến năm 2025; triển khai thực hiện Đề án Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nuôi thủy sản trên đất trồng lúa khu vực phía Bắc Quốc lộ 1A; Dự án Chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ sầu riêng, xoài và theo dõi tình hình nuôi ở các vùng nuôi cá tra, vùng nuôi cá bè.
Đối với vùng phía Đông, triển khai Đề án Cắt vụ, chuyển đổi mùa vụ và cơ cấu cây trồng, xây dựng thương hiệu gạo Gò Công, hình thành vùng chuyên sản xuất rau an toàn; phát triển vùng nuôi tôm, nuôi nghêu, khai thác đánh bắt thủy hải sản kết hợp với bảo vệ an ninh quốc gia trên biển. Từng bước đổi mới tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao, bảo vệ môi trường sinh thái thích ứng với biến đổi khí hậu và xây dựng, phát triển nông thôn mới, góp phần tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân vùng biển.
Thứ tư là: Về phát triển công nghiệp, chúng ta đã triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án Tái cấu trúc ngành Công nghiệp của tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; hoạt động sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá ổn định; tập trung nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp có quy mô khá với các ngành chế biến thủy sản, rau quả, thức ăn chăn nuôi, may mặc, sản xuất giày, túi xách… Cụ thể:
Đối với vùng Trung tâm, tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu, cụm công nghiệp hiện có; đầu tư hoàn chỉnh, đồng bộ kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp của từng vùng; từng bước di dời các nhà máy, cơ sở sản xuất công nghiệp ô nhiễm ra khỏi đô thị, khu vực đông dân cư.
Đối với vùng phía Tây, đã mời gọi đầu tư, lấp đầy được 85,3% diện tích của Khu công nghiệp Long Giang; đẩy nhanh tiến độ thành lập các cụm công nghiệp tại vùng. Điều đáng mừng là việc phát triển các khu, cụm công nghiệp của vùng đã có sự gắn kết, liên kết khai thác hiệu quả với Khu công nghiệp Tân Hương (đã lấp đầy 100%), Khu công nghiệp Mỹ Tho (đã lấp đầy 100%).
Đối với vùng phía Đông, tập trung thực hiện các thủ tục pháp lý để mời gọi nhà đầu tư thứ cấp; triển khai đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp như: Cụm công nghiệp Gia Thuận 1 đã đưa vào hoạt động, thu hút nhà đầu tư thứ cấp (đã lấp đầy 29,3% diện tích); đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án Cụm công nghiệp Gia Thuận 2, đang đẩy nhanh các thủ tục để triển khai các cụm công nghiệp trong vùng.
Năm là: Về phát triển thương mại, dịch vụ có nhiều khởi sắc, chúng ta đã đầu tư phát triển đồng bộ các ngành dịch vụ, trung tâm thương mại, chợ đầu mối, siêu thị bán sỉ, các dịch vụ y tế, giáo dục ở vùng Trung tâm. Đầu tư xây dựng hoàn thành và đưa vào hoạt động Siêu thị Co.opmart Cai Lậy, Siêu thị Nội thất điện máy Chợ Lớn và các dự án trọng điểm như: Dự án Công viên Trái cây Cái Bè; Đề án Bảo tồn và phát huy chợ nổi Cái Bè; Đề án Phát triển Du lịch xã cù lao Tân Phong, huyện Cai Lậy ở vùng phía Tây. Tập trung phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch gắn với khai thác kinh tế biển và ven biển; phát triển thương mại, dịch vụ gắn với các khu, cụm công nghiệp; phát triển du lịch theo tuyến du lịch biển ở vùng phía Đông.
Sáu là: Về phát triển đô thị, chúng ta đã đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị cơ bản hoàn thiện đồng bộ tại các đô thị trung tâm của cả 3 vùng kinh tế (TP. Mỹ Tho, TX. Gò Công, TX. Cai Lậy) phù hợp với đặc thù, quy mô phát triển của từng vùng. Đặc biệt, vùng Trung tâm đã tập trung xây dựng và phát triển TP. Mỹ Tho để hoàn thiện các tiêu chí đô thị loại I, làm động lực, hạt nhân, phát triển lan tỏa, kết nối với phát triển các đô thị vệ tinh xung quanh như Chợ Gạo, Tân Hiệp; vùng phía Tây phát triển đô thị TX. Cai Lậy với vai trò là đô thị trung tâm của vùng (Bộ Xây dựng đã công nhận TX. Cai Lậy đạt tiêu chí đô thị loại III), phát huy vai trò là động lực, lan tỏa, kết nối với phát triển các đô thị vệ tinh như Cái Bè, Mỹ Phước; vùng phía Đông đã được Bộ Xây dựng công nhận TX. Gò công đạt chuẩn đô thị loại III, tỉnh công nhận thị trấn Vĩnh Bình, Tân Hòa, Vàm Láng là đô thị loại V, đây là điều kiện thuận lợi tạo động lực phát triển lan tỏa, kết nối với phát triển đô thị Vàm Láng, Vĩnh Bình.
Với sự đoàn kết, quyết tâm của các địa phương, của các vùng và các sở, ban, ngành của tỉnh, năm 2020, tỷ lệ đô thị hóa toàn tỉnh đạt 14,2%; trong đó, vùng Trung tâm đạt 20,1%, vùng phía Tây đạt 8,5%, vùng phía Đông đạt 14%. Năm 2022, toàn tỉnh đạt 31,2%; trong đó, vùng Trung tâm đạt 35,43%, vùng phía Tây đạt 26,53%, vùng phía Đông đạt 31,93%.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong triển khai thực hiện Nghị quyết 10 của Tỉnh ủy về phát triển kinh tế – đô thị 3 vùng, chúng ta vẫn còn không ít khó khăn, hạn chế cần sớm có biện pháp tháo gỡ, khắc phục:
Đó là: Việc liên kết vùng trong phát triển sản xuất và tiêu thụ nông sản chưa đạt được kết quả theo Nghị quyết; sản xuất nông nghiệp theo quy mô lớn, Cánh đồng lớn thực hiện còn chậm, hạ tầng chưa đồng bộ, còn nhỏ lẻ, manh mún; có lúc, có nơi nông dân tự phát chuyển đổi cây trồng, vật nuôi một cách ồ ạt không theo định hướng quy hoạch dẫn đến nguồn cung vượt cầu.
Đó là: Tính kết nối, liên kết giữa các lĩnh vực, giữa các ngành và các địa phương chưa đồng bộ, chưa chặt chẽ, chưa xác định rõ vùng động lực, vùng trung tâm để tạo sức lan tỏa trong phát triển; công tác phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh cho các vùng và các địa phương còn hạn chế, thiếu tính chủ động để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc.
Đó là: Việc triển khai đầu tư hạ tầng các khu, cụm công nghiệp và các dự án phát triển các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch còn chậm; hiệu quả hoạt động của một số hợp tác xã chưa cao, quy mô, năng lực cạnh tranh còn yếu; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, thiếu đào tạo chuyên sâu.
Để tiếp tục phát huy kết quả đạt được, khắc phục những khó khăn, hạn chế, các đồng chí Bí thư cấp ủy, Chủ tịch UBND cấp huyện cần tập trung tốt hơn trong lãnh đạo, chỉ đạo để kịp thời tháo gỡ khó khăn, đảm bảo cân đối, đồng bộ giữa nhiệm vụ, giải pháp trước mắt và dài hạn; đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh, gắn với chú trọng thực hiện đầy đủ, kịp thời công tác đảm bảo an sinh xã hội, phát triển bền vững. Tôi xin nhấn mạnh thêm một số việc:
Thứ nhất: Khẩn trương hoàn thành, triển khai Quy hoạch của tỉnh thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 nhằm khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế của các vùng; nâng cao chất lượng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; gia tăng năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu hội nhập, đảm bảo an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội và nâng cao chất lượng đời sống người dân. Tiếp tục triển khai thực hiện theo lộ trình các đề án tái cơ cấu, phát triển nông nghiệp, công nghiệp, đô thị, thương mại, du lịch của tỉnh.
Thứ hai: Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa gắn với nâng cao chất lượng đô thị. Xây dựng TP. Mỹ Tho có vai trò là một trong những trung tâm dịch vụ thương mại, logistic, du lịch tại khu vực phía Bắc sông Tiền; đô thị cửa ngõ giữa TP. Hồ Chí Minh và vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Phát triển các đô thị động lực đảm bảo hiện đại, thông minh và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển đô thị kinh tế biển ở Gò Công, vùng đô thị công nghiệp tập trung tại Tân Phước; phát triển đô thị ven biển, đô thị sinh thái ven sông Tiền và cải thiện môi trường đô thị ven sông; phát triển các khu, cụm công nghiệp ở các khu vực đô thị động lực.
Thứ ba: Rà soát, điều chỉnh, định hướng phát triển nông nghiệp phù hợp với các tiểu vùng sinh thái gắn với 3 nhóm sản phẩm chủ lực là cây ăn trái – lúa gạo – thủy sản phù hợp với định hướng quy hoạch phát triển nông nghiệp toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong tình hình mới; là trung tâm xuất khẩu nông sản của vùng Đồng bằng sông Cửu Long dựa trên việc xây dựng cầu nối bền vững và chuyên nghiệp với các thị trường xuất khẩu. Phát triển nền nông nghiệp đa dạng, theo hướng hiện đại và bền vững; phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp kết hợp du lịch sinh thái; chủ động phòng, tránh, giảm thiểu rủi ro do thiên tai, biến đổi khí hậu. Tăng cường triển khai, nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp thông minh thích ứng biến đổi khí hậu có hiệu quả, phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng, từng địa phương.
Thứ tư: Tiếp tục đầu tư phát triển các khu, cụm công nghiệp, thu hút đầu tư các ngành nghề tạo ra các sản phẩm công nghiệp theo hướng công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Phát triển khoa học – công nghệ và đẩy mạnh chuyển đổi số trở thành động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào sản xuất để gia tăng năng suất. Chuyển giao, ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến, hiện đại, công nghệ mới; làm chủ và nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới công nghệ, tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao.
Thứ năm: Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tăng cường thu hút đầu tư, tạo thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh. Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023 và những năm tiếp theo. Nghiên cứu các chủ trương, chính sách và giải pháp để nâng cao Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI) của tỉnh; cần có giải pháp cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh nhằm tăng cường thu hút đầu tư, phát triển doanh nghiệp; triển khai thực hiện các giải pháp nâng cao Chỉ số Năng lực tranh tranh cấp tỉnh (PCI).
Thứ sáu: Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư; xây dựng danh mục dự án đầu tư, mời gọi đầu tư mang tính chất trọng điểm, liên kết trong nội vùng và liên vùng. Tập trung khai thác, phát triển hành lang kinh tế dọc theo tuyến cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận, Quốc lộ 1A, Quốc lộ 50 qua địa bàn tỉnh; quản lý đầu tư đồng bộ theo tuyến, theo cụm đối với các công trình giao thông, cấp điện, cấp nước, thoát nước, thông tin liên lạc, chiếu sáng. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vào phát triển kinh tế – xã hội, thu hút tối đa các nguồn lực từ bên ngoài, nhất là vốn, công nghệ, lao động có tay nghề kỹ thuật cao, thực hiện nhất quán, lâu dài các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư…
Thứ bảy: Tập trung rà soát các quy hoạch, thực hiện có hiệu quả Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025, trên cơ sở rà soát, điều chỉnh, bổ sung vào Kế hoạch đầu tư công năm 2023 và các năm tiếp theo. Thực hiện đầu tư phát triển lưới điện, đảm bảo cung cấp đủ điện đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân; đầu tư xây dựng mạng lưới các tuyến ống chuyển tải nước kết nối với các tuyến ống chính để cung cấp nước sạch đáp ứng nhu cầu sử dụng trong sản xuất và sinh hoạt. Tích cực huy động mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế, đặc biệt là nguồn lực từ đất đai; đa dạng hóa đầu tư để triển khai thực hiện các dự án phát triển 3 vùng, các dự án quan trọng gắn với phát triển vùng, liên kết vùng.
Đối với Nghị quyết 11 về phát triển du lịch của tỉnh đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030: Các cấp, các ngành và các địa phương đã cụ thể hóa Nghị quyết vào chương trình, kế hoạch công tác năm; xây dựng đề án và các văn bản chỉ đạo sát hợp với thực tiễn của địa phương; tổ chức tốt các hoạt động giới thiệu, quảng bá sản phẩm và hình ảnh du lịch của địa phương đến du khách, bạn bè trong nước và quốc tế. Tiêu biểu là Lễ hội Văn hóa –
Du lịch Làng cổ Đông Hòa Hiệp, Lễ hội Anh hùng dân tộc Trương Định; kết nối, hình thành các tour, tuyến du lịch với các doanh nghiệp ở cồn Thới Sơn, cồn Phụng, cồn Quy (Bến Tre); du lịch sinh thái và tâm linh vùng Đồng Tháp Mười; chuỗi du lịch Quảng trường tỉnh – Điền lan thôn trang (Tam Hiệp – Châu Thành) – chùa Vĩnh Tràng – Làng nghề hủ tiếu Mỹ Tho… với lượng khách du lịch và tổng thu từ du lịch năm sau cao hơn năm trước. Năm 2020, năm 2021 do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên doanh thu có giảm so với trước; song, việc phục hồi du lịch sau đại dịch được triển khai quyết liệt bằng nhiều biện pháp phù hợp và đã mang lại hiệu quả tích cực, hoạt động du lịch trở lại bình thường, lượng khách du lịch trong nước và người nước ngoài đến tỉnh đã tăng trở lại.
Công tác đầu tư và kêu gọi đầu tư vào các dự án phát triển du lịch có bước khởi sắc; chúng ta hiện có 12 dự án đầu tư phát triển du lịch với tổng vốn đăng ký trên 2.000 tỷ đồng; trong đó, có nhiều dự án đã đưa vào hoạt động như: Cảng Du thuyền Mỹ Tho, Khu du lịch sinh thái Làng Yến (Tân Phú Đông), Khu du lịch sinh thái Trung Kiên (Tân Phước), Khu du lịch sinh thái Gò Công Phi Long, Khách sạn Lạc Hồng…
Hoạt động hợp tác liên kết ngày càng được mở rộng và thiết thực hơn, các doanh nghiệp chủ động kết nối tour, tuyến và mở rộng thị trường du lịch giữa các vùng, miền trong cả nước; đã ký kết thỏa thuận liên kết hợp tác phát triển du lịch với TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành Đồng bằng sông Cửu Long; xây dựng tour, tuyến liên kết phát triển du lịch với khu vực Tiểu vùng Đồng Tháp Mười; hợp tác phát triển du lịch với Hà Tĩnh, Hà Nội và là thành viên Cụm liên kết hợp tác phát triển du lịch phía Đông Đồng bằng sông Cửu Long. Mặt khác, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch đã được lãnh đạo các địa phương, doanh nghiệp quan tâm; nguồn nhân lực du lịch tăng về số lượng và được nâng lên một bước về chất lượng.
Trong một số chỉ tiêu chủ yếu của Nghị quyết, chúng ta cũng đã đạt được một số kết quả bước đầu rất đáng khích lệ, như: Tốc độ tăng bình quân lượng khách du lịch và tổng thu từ du lịch giai đoạn 2017 – 2019 tương ứng 8,16% và 10,13%; năm 2019, tỉnh có 335 cơ sở lưu trú, đạt chỉ tiêu đến năm 2020 theo Nghị quyết đã đề ra (Năm 2021, tỉnh giảm còn 209 cơ sở và năm 2022 tăng lên 317 cơ sở lưu trú).
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác triển khai thực hiện Nghị quyết về phát triển du lịch của tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại:
Một là, công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, của Nhà nước về phát triển du lịch và mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của phát triển du lịch chưa thường xuyên, chưa đi vào chiều sâu, còn mang tính thời vụ. Một số lãnh đạo ngành và địa phương chưa nhận thức được du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, đa ngành, đa lĩnh vực nên có tư tưởng phát triển du lịch là nhiệm vụ của riêng ngành Du lịch.
Hai là, công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành, các địa phương trong phát triển du lịch chưa thật sự chặt chẽ, hiệu quả chưa cao; tiến độ triển khai thực hiện các dự án du lịch còn chậm, kéo dài, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển chung của ngành Du lịch.
Ba là, công tác xúc tiến, quảng bá du lịch chưa đi vào chiều sâu, chỉ mới dừng lại ở việc tham gia hội chợ triển lãm; chưa phát huy được năng lực và điều kiện để tổ chức các tour du lịch dài ngày, phát triển kinh doanh lữ hành, nhất là lữ hành quốc tế (Hầu hết chúng ta đều phải thông qua các doanh nghiệp ở TP. Hồ Chí Minh); chưa có các khu, điểm du lịch, khu nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí quy mô lớn để giữ chân du khách, tạo động lực dẫn dắt cho hoạt động du lịch.
Thứ tư là, cơ sở hạ tầng du lịch chưa được đầu tư tương xứng với nhu cầu phát triển; việc mời gọi đầu tư các dự án phát triển du lịch còn hạn chế; mức độ khai thác, phát triển du lịch sinh thái gắn với các di tích lịch sử – văn hóa chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương.
Năm là, năng lực, trình độ, sự nhạy bén của cán bộ quản lý nhà nước, của đội ngũ lao động trong lĩnh vực du lịch chưa theo kịp và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh của ngành Du lịch, nhất là tình trạng thiếu nhân lực chất lượng cao, chuyên gia đầu ngành để hiến kế, nắm bắt xu thế, nhu cầu của khách du lịch.
Theo dự báo, trong thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực và trong nước tiếp tục diễn biến rất khó lường, có cả cơ hội thuận lợi lẫn khó khăn, thách thức đan xen. Do đó, chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ, phải có giải pháp cụ thể, phù hợp với tình hình thực tiễn để thích ứng, để tạo bước đột phá trong phát triển du lịch của tỉnh một cách toàn diện cả về phạm vi, về quy mô và về chất lượng dịch vụ, tính bền vững. Tôi xin nói thêm mấy việc:
Thứ nhất: Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, quán triệt và tổ chức thực hiện; phải nhận thức đúng và nâng cao trách nhiệm, quyết liệt trong hành động của các cấp, các ngành, các địa phương, doanh nghiệp và nhân dân trong phát triển du lịch để du lịch thật sự là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Muốn vậy, chúng ta cần phải mạnh dạn đổi mới tư duy, phát triển du lịch phải theo quy luật kinh tế thị trường; cần nâng cao ý thức của người dân, của doanh nghiệp và của cộng đồng trong xây dựng, bảo vệ và phát huy hình ảnh vùng đất, con người Tiền Giang; tăng cường xúc tiến đầu tư về du lịch; đồng thời, phải có sự nghiên cứu sâu hơn các quy định của pháp luật để đề xuất ban hành các chính sách, cơ chế phù hợp, tạo môi trường thông thoáng về thủ tục đầu tư, mời gọi các thành phần kinh tế, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vào các dự án du lịch gắn với đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện các dự án du lịch.
Thứ hai: Triển khai có hiệu quả các quy hoạch, các chương trình, đề án về phát triển du lịch đã được phê duyệt; trong đó, tập trung đầu tư phát triển các dự án du lịch tại 4 trung tâm du lịch chính như: Khu du lịch Cái Bè, Khu du lịch cù lao Thới Sơn, Khu du lịch biển Tân Thành và Khu bảo tồn sinh thái Đồng Tháp Mười. Đổi mới cách thức quảng bá, xúc tiến du lịch để từng bước xã hội hóa công tác xúc tiến du lịch; đẩy nhanh chuyển đổi số ngành Du lịch; nâng cao chất lượng, hiệu quả việc tổ chức các sự kiện văn hóa gắn với phát triển du lịch (Khâu yếu nhất của chúng ta là quy hoạch phát triển du lịch, chúng ta chưa mở ra được hướng đi cụ thể, chưa mang tính chất lâu dài, bền vững để đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển).
Thứ ba: Các huyện, thành, thị cần chủ động xây dựng và triển khai các đề án phát triển du lịch đến năm 2025, tầm nhìn 2030 trên địa bàn theo tiến độ. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn; tổ chức điều tra, đánh giá tài nguyên du lịch của địa phương; xem xét bố trí nhân sự phù hợp để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước về du lịch ngay ở cơ sở (Tỉnh chúng ta hiện rất thiếu đội ngũ cán bộ tham mưu giỏi, quản lý chuyên sâu về du lịch; làm công tác du lịch nhưng không yêu nghề du lịch, không sâu về du lịch thì làm sao thu hút, làm sao phát triển được du lịch. Vấn đề này tới đây các đồng chí nên có sự tính toán trong đào tạo, bồi dưỡng và trong thực hiện chính sách thu hút).
Thứ tư: Về nhiệm vụ của các ngành và các địa phương, tôi cũng xin nêu một số công việc cụ thể như sau:
Một là, TP. Mỹ Tho chủ trì, phối hợp với các ngành chuyên môn mời gọi đầu tư xây dựng phố đi bộ, khu ẩm thực đêm để phát triển dịch vụ, thu hút khách du lịch về đêm, xứng tầm là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh.
Hai là, Sở Công thương chủ trì, phối hợp với các ngành có liên quan và các huyện, thành phố, thị xã tiếp tục phát triển du lịch làng nghề gắn với sản xuất đồ lưu niệm phục vụ du lịch. Quan tâm đổi mới về hình thức, lựa chọn doanh nghiệp uy tín, chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng tại các kỳ hội chợ, triển lãm; khuyến khích đầu tư sản xuất và tổ chức mạng lưới kinh doanh các sản phẩm OCOP.
Ba là, Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp tham mưu UBND tỉnh ban hành danh mục dự án mời gọi đầu tư trên cơ sở Quy hoạch của tỉnh thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 của các huyện, thành, thị. Hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ, nhất là đối với các dự án du lịch đang triển khai để hoàn thành và đưa vào hoạt động.
Thứ tư là, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp triển khai Chương trình Phát triển du lịch trong xây dựng nông thôn mới; phối hợp tham mưu thực hiện thí điểm một số mô hình làm nông nghiệp thông minh kết hợp với du lịch.
Năm là, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì phối hợp với các ngành, đơn vị liên quan và UBND các huyện, TP. Mỹ Tho, TX. Gò Công, TX. Cai Lậy có kế hoạch tôn tạo, phát huy giá trị của các di tích lịch sử, văn hóa nhằm phục vụ nhu cầu tham quan du lịch. Liên kết với các địa phương trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và TP. Hồ Chí Minh hình thành các tour, các sản phẩm du lịch về văn hóa tâm linh, du lịch sông nước, các khu di tích văn hóa, truyền thống lịch sử của các địa phương trong tỉnh; bổ sung, trưng bày hình ảnh, hiện vật tại viện bảo tàng tỉnh để thu hút khách thăm quan, du lịch…
Sáu là, Ban cán sự Đảng UBND tỉnh lãnh đạo UBND tỉnh chỉ đạo ngành chuyên môn nghiên cứu, đề xuất điều chỉnh mục tiêu và một số chỉ tiêu chủ yếu về du lịch đến năm 2030 cho phù hợp với tình hình hiện nay.
Sau hội nghị này, Tỉnh ủy sẽ ban hành Kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 10 về phát triển kinh tế – đô thị 3 vùng của tỉnh và Nghị quyết 11 về phát triển du lịch của tỉnh. Các cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục nêu cao tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành, với quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, các chỉ tiêu và các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra, góp phần quan trọng cho sự phát triển bền vững của tỉnh.
Hội nghị đến đây kết thúc, chúc các đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công.
NGUYỄN VĂN DANH
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh Tiền Giang
(*) Đầu đề do Báo Ấp Bắc đặt
.