Tận dụng công nghệ một cách hiệu quả nhằm thúc đẩy phát triển văn hóa là vô cùng quan trọng trong bối ảnh CMCN 4.0.
ĐBQH. Bùi Hoài Sơn cho rằng, công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển văn hóa. (Ảnh: Thành Châu) |
Sáng 27/11, với đa số phiếu tán thành, Quốc hội đã thông qua nghị quyết về chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035, với tổng nguồn vốn thực hiện tối thiểu là 122.250 tỷ đồng.
Trong bối cảnh CMCN 4.0, công nghệ đóng vai trò quan trọng, thậm chí mang tính đột phá trong việc triển khai Nghị quyết về chương trình mục tiêu quốc gia phát triển văn hóa.
Thực tế, công nghệ không chỉ là công cụ mà còn là nền tảng, giúp thay đổi cách thức bảo tồn, phát huy và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại.
Trước hết, công nghệ số mở ra những phương thức mới để bảo tồn và lan tỏa văn hóa. Các ứng dụng như số hóa di sản văn hóa, xây dựng bảo tàng trực tuyến hay sử dụng thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR) trong việc tái hiện di sản giúp người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, có cơ hội tiếp cận với văn hóa một cách sống động và chân thực hơn. Những di sản có nguy cơ mai một này có thể được lưu giữ bền vững dưới dạng dữ liệu số, trở thành nguồn tài nguyên không giới hạn cho nghiên cứu và giáo dục.
Công nghệ cũng là cầu nối quan trọng trong việc đưa văn hóa đến gần hơn với công chúng. Các nền tảng mạng xã hội, ứng dụng di động và các kênh truyền thông kỹ thuật số tạo ra cơ hội tiếp cận rộng rãi, không chỉ trong nước mà còn vươn ra quốc tế. Các sản phẩm văn hóa, từ sách, phim, âm nhạc, cho đến nghệ thuật biểu diễn, có thể dễ dàng được phổ biến qua các nền tảng này, gia tăng sức hút và khả năng tương tác với công chúng.
Đồng thời, công nghệ giúp xây dựng môi trường sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa. Các công cụ trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (Machine Learning) và dữ liệu lớn (Big Data) hỗ trợ việc phân tích xu hướng, dự đoán nhu cầu văn hóa của cộng đồng, từ đó định hướng phát triển các sản phẩm và dịch vụ văn hóa phù hợp hơn.
Tuy nhiên, để tận dụng công nghệ một cách hiệu quả, cần có chiến lược rõ ràng và đồng bộ. Trước hết, việc đầu tư vào hạ tầng công nghệ và nguồn nhân lực số là điều kiện tiên quyết. Các cơ quan quản lý văn hóa cần phối hợp với ngành công nghệ thông tin để xây dựng các dự án số hóa quy mô lớn, đồng thời tổ chức các khóa đào tạo, nâng cao năng lực công nghệ cho đội ngũ làm công tác văn hóa.
Bên cạnh đó, việc xây dựng các cơ chế chính sách thúc đẩy sáng tạo công nghệ trong văn hóa cũng rất quan trọng. Cần khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ tham gia vào lĩnh vực văn hóa, thông qua các ưu đãi về thuế, vốn vay hoặc các chương trình hợp tác công-tư.
Cuối cùng, ý thức cộng đồng trong việc sử dụng công nghệ để phát triển văn hóa cần được nâng cao. Công nghệ không chỉ phục vụ cho giải trí mà còn là công cụ để lan tỏa những giá trị văn hóa tốt đẹp, góp phần xây dựng một xã hội giàu bản sắc và nhân văn.
Xây dựng cơ sở dữ liệu của ngành điện ảnh Việt Nam hiện đang rất được quan tâm. (Nguồn: VGP) |
Như vậy, với vai trò là chất xúc tác mạnh mẽ, công nghệ không chỉ hỗ trợ việc triển khai Nghị quyết mà còn thúc đẩy sự phát triển văn hóa Việt Nam lên một tầm cao mới, hiện đại hóa nhưng không đánh mất bản sắc. Điều quan trọng là làm sao để tận dụng công nghệ một cách hiệu quả, hài hòa và bền vững, nhằm biến thách thức của thời đại số thành cơ hội để văn hóa Việt Nam tỏa sáng.
“Việc quảng bá văn hóa Việt Nam cũng cần gắn liền với các chiến lược tiếp thị quốc gia, xây dựng thương hiệu văn hóa. Một đất nước có bản sắc văn hóa đặc sắc, vừa giữ gìn được các giá trị truyền thống, vừa biết cách làm mới mình, sẽ có sức hút mạnh mẽ trong mắt bạn bè quốc tế. Để làm được điều đó, cần đào tạo một đội ngũ nhân lực văn hóa không chỉ giỏi chuyên môn mà còn thành thạo ngoại ngữ, am hiểu sâu sắc về xu hướng quốc tế”. |
Vậy làm thế nào để vừa bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc vừa chủ động hội nhập và quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới? Bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc trong khi chủ động hội nhập và quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới là bài toán đòi hỏi sự cân bằng khéo léo giữa truyền thống và hiện đại.
Trước tiên, cần khẳng định rằng bảo tồn không có nghĩa là giữ nguyên trạng mà phải gắn với việc sáng tạo, làm mới để các giá trị văn hóa truyền thống không ngừng phát triển, thích nghi với nhịp sống hiện đại. Điều này đòi hỏi một chiến lược bảo tồn toàn diện, từ việc gìn giữ các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, đến việc truyền dạy các giá trị văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ.
Trong quá trình bảo tồn, việc ứng dụng công nghệ hiện đại có thể mang lại hiệu quả vượt bậc. Chẳng hạn, các di sản văn hóa phi vật thể có thể được số hóa, tạo dựng các kho lưu trữ trực tuyến, hoặc tái hiện qua công nghệ thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR). Các ứng dụng này không chỉ giúp bảo tồn mà còn đưa văn hóa Việt Nam đến gần hơn với công chúng trong nước và quốc tế. Ngoài ra, việc phát triển các sản phẩm văn hóa dựa trên di sản, như phim ảnh, âm nhạc, thời trang, hay du lịch văn hóa, sẽ giúp truyền tải bản sắc dân tộc một cách sống động và hấp dẫn.
Song song với việc bảo tồn, chủ động hội nhập đòi hỏi một tinh thần mở, sẵn sàng học hỏi và tiếp nhận các giá trị văn hóa quốc tế. Tuy nhiên, cần có một định hướng rõ ràng để không bị hòa tan mà thay vào đó là làm giàu thêm bản sắc riêng. Việc này có thể thông qua hợp tác quốc tế, tổ chức các sự kiện giao lưu văn hóa, hay tham gia các diễn đàn, liên hoan văn hóa toàn cầu. Chẳng hạn, Việt Nam có thể tận dụng các sự kiện quốc tế như Liên hoan phim Cannes, Triển lãm Expo, hay Ngày văn hóa Việt Nam ở nước ngoài để giới thiệu vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật, ẩm thực, trang phục và các di sản văn hóa.
Việc quảng bá cũng phải gắn liền với các chiến lược tiếp thị quốc gia, xây dựng thương hiệu văn hóa. Một đất nước có bản sắc văn hóa đặc sắc, vừa giữ gìn được các giá trị truyền thống, vừa biết cách làm mới mình, sẽ có sức hút mạnh mẽ trong mắt bạn bè quốc tế. Để làm được điều đó, cần đào tạo một đội ngũ nhân lực văn hóa không chỉ giỏi chuyên môn mà còn thành thạo ngoại ngữ, am hiểu sâu sắc về xu hướng quốc tế.
Hơn nữa, cộng đồng người Việt ở nước ngoài cũng đóng vai trò cầu nối quan trọng trong việc lan tỏa văn hóa dân tộc. Việc hỗ trợ, khuyến khích kiều bào tham gia các hoạt động quảng bá văn hóa, tổ chức các sự kiện văn hóa tại địa phương sẽ giúp tăng cường sự hiện diện của văn hóa Việt Nam trên toàn cầu.
Tóm lại, bảo tồn bản sắc và hội nhập quốc tế không phải là hai nhiệm vụ mâu thuẫn mà có thể bổ trợ lẫn nhau. Chính sự kết hợp hài hòa giữa gìn giữ truyền thống và sáng tạo hiện đại sẽ giúp văn hóa Việt Nam vừa vững vàng trong cội rễ dân tộc, vừa lan tỏa sức sống mạnh mẽ trên trường quốc tế.
Tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội đã biểu quyết Phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 – 2035, với 430/454 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 89,77% tổng số đại biểu Quốc hội. Mục tiêu tổng quát của Chương trình là tạo sự chuyển biến mạnh mẽ và toàn diện trong phát triển văn hóa và xây dựng, hoàn thiện nhân cách, chuẩn mực đạo đức, bản sắc, bản lĩnh, hệ giá trị con người, gia đình Việt Nam. Nâng cao đời sống tinh thần, khả năng tiếp cận, thụ hưởng văn hóa, nhu cầu tập luyện, giải trí của Nhân dân, thu hẹp sự chênh lệch trong thụ hưởng văn hóa giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư, giới tính từ đó nâng cao năng suất lao động, hiệu quả công việc. Huy động sự tham gia của mọi tổ chức, cá nhân và cộng đồng trong việc quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc. Huy động nguồn lực, tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, chất lượng, hiệu quả cho phát triển văn hóa, đóng góp trực tiếp vào phát triển kinh tế – xã hội, thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Xây dựng nguồn nhân lực văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, chất lượng cao, có bản lĩnh chính trị phục vụ nhu cầu trong nước và hướng đến đáp ứng các thị trường nước ngoài. Phát huy tính dân tộc, tính khoa học, tính đại chúng của văn hóa thông qua đầu tư để bảo tồn văn hóa truyền thống dân tộc, xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, trong đó nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đóng vai trò quan trọng. Chú trọng hội nhập quốc tế và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam. Chương trình được thực hiện trên phạm vi cả nước và tại một số quốc gia có mối quan hệ, tương tác văn hoá lâu dài với Việt Nam, có đông đảo người Việt Nam sinh sống, lao động, học tập. Thời gian thực hiện là từ năm 2025 đến hết năm 2035. Trong Nghị quyết, Quốc hội quyết nghị nguồn vốn thực hiện giai đoạn 2025 – 2030 tối thiểu là 122.250 tỷ đồng. |
Nguồn: https://baoquocte.vn/tan-dung-cong-nghe-de-thuc-day-van-hoa-phat-trien-296367.html