08:20, 30/07/2023
“Tiều ơi Tiều! Chú Tiều xưa cũ/ Lời du ca lãnh lói gọi ta về/ Cuộc phong trần may ta còn bầu rượu/ Để cùng người kết bạn sơn khê (…) Còn cho ta một trời mây bay/ Còn vầng trăng soi tỏ mặt mày/ Mai chú lại lên đồi đốn củi/ Ta về rừng gối đá ngủ say” (Bài ngâm đùa chơi).
Đó những câu thơ cuối cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường đọc khi cùng bạn bè uống rượu thức xem World Cup trong cái đêm định mệnh 14/6/1998, trước khi bị tai biến. Những năm tháng sau đó trên giường bệnh, anh có thể còn làm thơ và đọc nhờ người nhà chép giúp, chứ không còn cái giọng đọc sang sảng hút hồn người nghe ấy nữa. Và, 25 năm sau, ngày 24/7/2023, anh “về rừng gối đá ngủ say”, một giấc ngủ vĩnh hằng…
Trong văn chương hiện đại, Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là người xếp hàng đầu về số lượng, nhưng lại là người xếp hàng đầu về chất lượng. Anh chỉ kịp đính tên mình vào 20 tác phẩm, nhưng lại là người viết bút ký tài hoa bậc nhất, bên cạnh Nguyễn Tuân.
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ảnh: Lê Đức Dục |
Với tư cách nhà văn, anh không phải là người duy nhất, nhưng chắc chắn là người số một, người viết nhiều nhất và hay nhất về khí hậu, đất đai, sông núi, thiên nhiên và con người xứ Huế. Dường như trong câu chữ anh viết ra luôn cô đặc đến mức sóng sánh chất Huế, anh xoáy sâu ngòi bút vào sông Hương, núi Ngự (Rất nhiều ánh lửa, Ai đã đặt tên cho dòng sông, Sử thi buồn, Miền cỏ thơm, Hoa trái quanh tôi, Tuyệt tình cốc, Căn nhà của những gã lang thang), cũng có khi ngòi bút anh vươn xa đến Côn Sơn, đến Quảng Trị quê xưa của anh (Thời ấu thơ xanh biếc, Hành lang của người và gió), lên đến đỉnh Bạch Mã (Ngọn núi ảo ảnh), hoặc những gian lao, buồn vui trong ký ức một thuở ở rừng núi chiến khu (“Diễm xưa” của tôi, Lý chuồn chuồn, Đời rừng, Rừng cười), nhưng đều gắn liền với không gian, cỏ cây và tâm thức con người xứ Huế. Anh không chỉ thể hiện một trữ lượng đồ sộ về tri thức văn hóa và đời sống của con người, không chỉ tri ngộ mà còn hạnh ngộ có ý nghĩa nhân loại, có khả năng xây dựng những biểu tượng, huyền thoại hóa cỏ cây hoa lá, cho nó đời sống tâm hồn hằng cửu với nhân gian. Cái “tạng” văn chương của Hoàng Phủ thuộc về tâm cảm, về niềm đau trần thế, nỗi buồn mênh mông và cơn mê dài xuyên qua nhiều số kiếp. Anh có nói về niềm vui, nhưng niềm vui rất ngắn, chỉ dừng lại trong ý niệm, hoặc chợt lóe sáng lên chỉ như một nỗi hân hoan rồi nhanh chóng tắt ngấm đi trong đêm trường miên viễn.
Hiếm có một thế hệ/tình bạn nào sâu đậm như những tài năng chơi thân với nhau, thường lui tới Căn nhà của những gã lang thang: Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trịnh Công Sơn, Ngô Kha, Đinh Cường, Bửu Ý, nhất là mối tương liên giữa Hoàng Phủ và Trịnh. Ngoài bút ký Như con sông từ nguồn ra biển, anh viết trên chiến khu năm 1971, có đến mười bút ký khác viết sau khi Trịnh đã qua đời (2001), cũng có nghĩa là khi anh đã ngã bệnh vì tai biến (1998), phải nằm đọc cho người nhà ghi lại và đã từng in thành tập Trịnh Công Sơn – cây đàn Lya của Hoàng tử bé (2005). Không chỉ dừng lại ở Trịnh, mà thông qua Trịnh, anh còn phác thảo chân dung của cả một thế hệ trí thức ở miền Nam: Ngô Kha, Trần Quang Long, Lê Minh Trường, Đinh Cường, Bửu Ý… Mỗi người đều có một cuộc dấn thân, một ngã rẽ đường đời khác nhau, nhưng họ đều là những trí thức yêu nước. Ngay cả đối với bản thân anh, vào mùa hè năm 1966, Hoàng Phủ là ngòi nổ, là tiếng nói đanh thép xếp hàng đầu trong phong trào đấu tranh của trí thức, sinh viên học sinh miền Nam. Nếu chế độ Sài Gòn lúc ấy không tuyên bố đặt anh “ra ngoài vòng pháp luật” (bắt được là giết không cần xét xử) thì chưa chắc anh đã lên rừng kháng chiến. Ở lại nội thành, anh cũng là một trí thức yêu nước như bạn bè cùng thế hệ anh.
Mấy mươi năm qua, đã có không biết bao nhiêu khóa luận, luận văn cao học và cả luận án tiến sĩ nghiên cứu về anh, không biết có bao nhiêu công trình, bài viết của các nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình chuyên nghiệp đồng cảm với anh. (Và, tôi chợt nghĩ rằng, đã đến lúc cần phải có một sưu tập đầy đủ, cần có một cái nhìn về anh qua dư luận!). Bởi lẽ, Hoàng Phủ đã tìm ra một giọng điệu văn chương riêng cho mình, không giống ai. Giọng điệu văn chương của anh là cốt cách tinh thần của người Huế, là hệ thống triết mỹ và bản mệnh văn chương của đời anh.
Hoàng Phủ không chỉ là người tài hoa về văn chương mà còn có kiến thức uyên bác về nhiều lĩnh vực triết học, văn học, văn hóa, lịch sử, địa lý, tôn giáo, sinh vật học… Những miêu tả về cây cối, hoa trái có thể sánh ngang bất kỳ một luận án tiến sĩ chuyên ngành nào. Tất nhiên, từ sự dạt dào tài hoa và trữ tình trong bút ký, mà Hoàng Phủ còn làm thơ, tuy không nhiều, nhưng thơ anh cũng có thể xếp ngang với những tác giả hay nhất cùng thời. Gần đây, khi nghiên cứu về văn chương xứ Huế, có dịp đọc lại anh, tôi mới hiểu một cách đầy đủ câu nói đơn giản mà thâm sâu của “đệ nhất võ lâm” thể ký Nguyễn Tuân, đã nói cách đây gần nửa thế kỷ: “Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường có “rất nhiều ánh lửa”.
Anh ra đi sau vợ anh, là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ 18 ngày. Hôm đó, tôi cùng các nhà văn, nhà thơ Võ Quê, Mai Văn Hoan, Meggie Phạm, Lê Vũ Trường Giang thay mặt cho Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Huế, vào TP. Hồ Chí Minh dự lễ khâm liệm và tiễn đưa nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ về nơi an nghỉ cuối cùng, đã thấy sức khỏe anh gần như cạn kiệt, như ngọn đèn đã cạn khô dầu. Cháu Dạ Thi nói rằng: “Ba cháu yếu lắm rồi! Cứ tưởng ba cháu sẽ đi trước, không ngờ lại là mẹ cháu…”. Vậy là, cuộc ra đi của anh đã được báo trước, không chỉ cách đây mấy chục ngày, mà còn báo trước cách đây 25 năm, khi anh bị tai biến một cách đột ngột. Định mệnh đời người lạ lắm, ai rồi cũng có lúc phải chia tay trần thế. Cuộc chia tay nào cũng buồn, cho dù là đã được báo trước một cách rõ ràng từ rất sớm, như trường hợp của anh.
Bây giờ có nói gì thì anh cũng đã ra đi. Nhớ lại những cuộc rượu suông thâu đêm suốt sáng, mà “đồ mồi” đôi khi chỉ là hóng nghe những câu chuyện anh kể, câu thơ anh đọc, tôi viết mấy dòng này kính cẩn nghiêng mình tiễn bước anh đi. Lòng cứ dặn lòng, rằng đừng có buồn, vì đời người ai sớm muộn gì rồi cũng phải đi, với riêng anh còn là bước đi thanh thản, thoát khỏi cơn đau dài mấy chục năm, nhưng sao lòng vẫn cứ buồn, buồn muốn cháy lòng, anh Tường ơi!
Phạm Phú Phong