Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với tinh thần chủ động hợp tác, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của phe Đồng minh và các lực lượng chống chủ nghĩa phát xít đã trở thành một mẫu mực về phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường kết hợp với tranh thủ sức mạnh quốc tế.
Đối ngoại nhộn nhịp giữa tháng Tám mùa Thu lịch sử
|
Cách mạng Tháng Tám trong mắt bạn bè quốc tế
|
Trong bài viết trên báo Thế giới và Việt Nam vào năm 2022 nhân kỷ niệm 77 năm Cách mạng Tháng Tám, PGS.TS Trần Minh Trưởng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho biết:
“Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật tiến hành đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương, chính quyền thuộc địa của Pháp đã đầu hàng nhanh chóng, lực lượng quân đội Pháp hoặc bị bắt, hoặc bỏ chạy ra sang Trung Quốc.
Ở Việt Nam, chính phủ thân Nhật của Trần Trọng Kim hoang mang rệu rã. Nắm bắt tình hình đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp mở rộng và nhận định về thời cơ khởi nghĩa đang đến rất gần: “những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi” Đảng quyết định phát động cao trào chống Nhật cứu nước.
Trên thế giới, ở chiến trường châu Âu, Hồng quân Liên Xô đã chuyển sang giai đoạn phản công và giành được những thắng lợi quan trọng; quân đội đồng minh đã đổ bộ vào Normandie (nước Pháp)…
Các thành viên nhóm Con Nai huấn luyện du kích Việt Minh sử dụng súng M1 Carbine. (Ảnh tư liệu: KT) |
Nắm sát tình hình thế giới và trong nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự báo thời cơ khởi nghĩa ở Việt Nam đang đến rất gần, Việt Minh cần phải có sự liên lạc, hợp tác với quân đồng minh, một mặt để họ hỗ trợ, mặt khác nhằm buộc họ thừa nhận Mặt trận Việt Minh là lực lượng hợp pháp ở Việt Nam, hợp tác với đồng minh trên mặt trận chống phát xít, giải phóng dân tộc.
Thực hiện chủ trương đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bí mật đến Côn Minh (Trung Quốc) để gặp gỡ, trao đổi và hợp tác chống phát xít Nhật với lực lượng đồng minh. Ngày 29/3/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh – đại diện cho Mặt trận Việt Minh và tướng Sê-nôn, Tư lệnh Sư đoàn không quân số 14 của Mỹ đã đạt được thỏa thuận: phía Việt Nam sẽ tăng cường lực lượng du kích và mở rộng phạm vi hoạt động của lực lượng này; phía Mỹ có trách nhiệm đưa các phái đoàn sang giúp huấn luyện về quân sự, đồng thời trang bị vũ khí, điện đài và các trang thiết bị khác.
Cũng trong chuyến công tác này, Người còn gặp nhiều sĩ quan Mỹ khác… Qua gặp gỡ, trao đổi, họ đều ấn tượng tốt đẹp về Bác Hồ và Việt Minh.
Trên cơ sở thỏa thuận giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và lực lượng đồng minh, tháng 4/1945, Thiếu tá A.Patti (Archimedes Patti) chỉ huy nhóm sĩ quan OSS đã đến gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Cao Bằng, đề nghị Việt Minh giúp đỡ thực hiện nhiệm vụ giải phóng các tù binh Mỹ (các phi công Mỹ bị Nhật bắt khi oanh kích quân Nhật ở Việt Nam).
Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng các thành viên của nhóm Con Nai ở Bắc Bộ Phủ, tháng 9/1945. (Ảnh tư liệu: KT). |
Việc xây dựng một sân bay đảm bảo cho sự liên lạc giữa hai bên Việt – Mỹ cũng được đặt ra. Tháng 6/1945, trước yêu cầu gia tăng hợp tác giữa Mặt trận Việt Minh và quân đồng minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ định hai đồng chí: Đàm Quang Trung và Lê Giản đi khảo sát, chọn địa điểm và lập kế hoạch xây dựng sân bay dã chiến ở Tuyên Quang; phối hợp với họ là một sĩ quan thuộc lực lượng Cứu trợ không quân Mỹ (AGAS).
Nhận chỉ thị của Người, đồng chí Đàm Quang Trung và Lê Giản cùng với viên sĩ quan Mỹ đi đến Lũng Cò (Tuyên Quang), xem xét địa thế và chọn nơi đây làm địa điểm xây dựng.
Ở Lũng Cò có một dải đất rộng chừng 4ha nằm giữa khe núi, bảo đảm cho các chuyến bay lên, xuống thuận tiện. Đồng ý với báo cáo về việc chọn địa điểm Lũng Cò, giữa tháng 6/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến tận nơi để xem xét và chỉ đạo xây dựng.
Sân bay được thiết kế có chiều dài 400m, chiều rộng 20m, loại máy bay L5 của Mỹ có thể cất, hạ cánh được. Cuối tháng 6/1945, qua liên lạc bằng điện đài với Bộ chỉ huy đồng minh tại Côn Minh, Người đồng ý để một toán quân Mỹ nhảy dù xuống Tân Trào, với danh nghĩa huấn luyện cho Việt Minh về chiến thuật quân sự và cách sử dụng các loại vũ khí.
Chiều ngày 16/7/1945, toán quân biệt hiệu “Con Nai” (DEER) do thiếu tá Allison Thomas chỉ huy và người phụ trách điện đài, cùng ba sĩ quan đồng minh đã nhảy dù xuống làng Kim Lung (Tuyên Quang), được Việt Minh đón tiếp nồng hậu.
Đây là sự kiện đánh dấu hợp tác quan trọng giữa lực lượng Việt Minh với lực lượng đồng minh (đại diện là Mỹ). Theo Thiếu tá A. Patti: “Trong bảy tuần lễ ở đây, Thomas và các chuyên viên người Mỹ đã để ra bốn tuần lễ để huấn luyện cho khoảng 200 giải phóng quân về việc sử dụng vũ khí Mỹ mới nhất và chiến thuật du kích”. L.A. Patti cho rằng: “… ông Hồ đã thành công trong việc đề cao nhiệm vụ nhỏ bé của toán “Con Nai” lên thành một nhân tố tâm lý kỳ diệu”.
Sau này, trong cuốn “Tại sao Việt Nam”, A.Patti đã viết: “Ông Hồ là một người thông minh, thấu hiểu những vấn đề của đất nước mình, một con người biết điều và tinh tế. Tôi cũng cảm thấy có thể tin cậy ông như một bạn đồng minh chống người Nhật. Tôi biết mục tiêu cuối cùng của ông là giành được sự ủng hộ của Mỹ đối với sự nghiệp của nước Việt Nam tự do và thấy rằng ước muốn ấy không trái ngược với chính sách của Mỹ. Từ một quan điểm thực tiễn, ông Hồ và Việt Minh hiện ra như một câu giải đáp cho vấn đề trước mắt của tôi là tiến hành các hoạt động ở Đông Dương”.
Ngày 19/8/1945, Việt Minh giành được chính quyền ở Hà Nội; ngày 22/8/1945, Thiếu tá A. Patti dẫn đầu nhóm OSS đáp máy bay xuống sân bay Gia Lâm. A. Patti cùng nhóm người Mỹ là một trong những người nước ngoài đầu tiên có mặt tại Thủ đô Hà Nội và được chứng kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong một bài viết trên tạp chí Xưa & Nay, GS.NGND. Vũ Dương Ninh, nguyên Chủ nhiệm Khoa Quốc tế học – Đại học Quốc gia Hà Nội nhận định: quan hệ giữa mặt trận Việt Minh do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu với những sĩ quan Mỹ thuộc tổ chức OSS từ Côn Minh, Trung Quốc tới cùng phối hợp đấu tranh chống phát xít Nhật ở Đông Dương là rất gắn bó. Trong điều kiện gian khổ của vùng rừng núi chiến khu Việt Bắc, các sĩ quan Mỹ là những người ngoại quốc duy nhất tham gia huấn luyện các đội vũ trang cách mạng và họ cũng là những người ngoại quốc có mặt sớm nhất tại Hà Nội trong vài ngày sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa bùng nổ và giành thắng lợi.
Nguồn: https://thoidai.com.vn/su-ung-ho-cua-quoc-te-gop-phan-lam-nen-thang-loi-cua-cach-mang-thang-tam-203714.html