Ông chính là Nhữ Trọng Thai (không rõ năm sinh năm mất), người làng Hoạch Trạch, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc huyện Bình Giang, Hải Dương).
Theo sử sách, Nhữ Trọng Thai sinh ra trong gia đình khoa bảng có tiếng. Sau khi đỗ thám hoa dưới triều vua Lê Thuần Tông, ông ra làm quan cho nhà Hậu Lê. Một lần mang quân đi dẹp loạn thất bại, ông bị cách hết chức vụ, phải về quê sống.
Khi vua Quang Trung kéo quân ra Bắc Hà, hưởng ứng lời kêu gọi của vua, Nhữ Trọng Thai gia nhập hàng ngũ nghĩa quân Tây Sơn, từ đó ông trở thành nhân sĩ đắc lực của vua Quang Trung.
Đầu năm Kỷ Dậu (1789), sau khi đánh đuổi 29 vạn giặc Mãn Thanh xâm lược, thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, để đỡ “mất mặt thiên triều”, vua Quang Trung đã chủ động xin đặt quan hệ. Vua Thanh lúc bấy giờ là Càn Long cũng nghe danh vị vua dũng mãnh, tài cao của nước Việt nên chấp thuận, có lời mời Quang Trung sang thăm nhân dịp lễ mừng thọ 80 tuổi của mình.
Đầu năm Canh Tuất (1790), nhà Tây Sơn chọn võ tướng Nguyễn Quang Thực có dung mạo giống vua Quang Trung đóng giả làm quốc vương nước Nam, dẫn đầu phái bộ gồm 150 người sang nhà Thanh, trong số đó có Nhữ Trọng Thai.
Theo sách Sứ thần Việt Nam, đoàn phái bộ nước ta sang nhà Thanh đúng dịp vua Càn Long tổ chức lễ mừng thọ 80 tuổi và 55 năm ở ngôi hoàng đế nên khắp nơi cờ hoa, đèn nến trang trí rực rỡ, lung linh đủ sắc màu. Cửa thành Thiên An Môn treo một vế đối mừng, viết trên tấm lụa hồng lớn mang ý nghĩa chúc tụng: “Long phi cửu ngũ, ngũ thập ngũ niên, ngũ số hợp thiên, ngũ số hợp địa, ngũ đức tu, ngũ hành dụng, ngũ phúc lung linh hàm phượng liễu”.
Vế đối này có nghĩa là: “Trên ngôi cửu ngũ, trị vì 55 năm, số năm hợp với trời, số năm hợp với đất, sửa mình theo năm đức, trị nước theo ngũ hành, năm phúc chầu vào liễu phượng”.
Sau ngày làm việc và hành lễ, quan bộ Lễ nhà Thanh dẫn một số đại thần trong đoàn sứ của nước Việt đi ngoạn cảnh và đến trước Thiên An Môn. Đại thần Mãn Thanh chỉ lên vế đối, có ý nói mời bên ta đối lại.
Nhữ Trọng Thai hỏi ngày tháng sinh của vua Càn Long rồi mượn giấy bút viết ngay vế đối: “Thánh thọ bát tuần, bát phùng bát nguyệt, bát thiên vi xuân, bát thiên vi thu, bát nguyên tiến, bát khải đăng, bát tiên cổ vũ hạ nghê thường”.
Vế đối lại có nghĩa: “Thánh thọ 80 tuổi, sinh ngày 8 tháng 8, tám nghìn mùa xuân, tám nghìn mùa thu, tám bậc hiền tới, tám bậc tài về, tám tiên múa nghê thường mừng thọ”.
Câu đối có ý ca tụng một vị vua có tuổi thọ sống lâu, có nhiều nhân tài quy tụ phù tá thì ắt làm cho thiên hạ no ấm, cuộc sống yên ổn thái bình, khiến thần tiên trên trời cũng phải múa hát mừng vui.
Vế đối của Nhữ Trọng Thai thể hiện trí tuệ sâu sắc, học vấn uyên thâm và kiến thức rộng mở của ông, khiến vua quan nhà Thanh ai ai cũng khen ngợi.
Vua Càn Long thích đến mức sai người viết câu đối của Nhữ Trọng Thai lên một tấm lụa hồng, rồi treo một bên cửa Thiên An Môn nhân ngày đại lễ chúc thọ mình, bố cáo cho thiên hạ cùng biết.
Nguồn: https://vtcnews.vn/su-than-nao-cua-nuoc-ta-co-cau-doi-chan-dong-khien-vua-can-long-ne-phuc-ar913008.html