PV Báo Tài nguyên và Môi trường đã có cuộc trao đổi với Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh về vấn đề này.
PV: Thưa ông, trước những khó khăn về nguồn cung ứng vật liệu xây dựng cho các công trình trọng điểm, Bộ Xây dựng đã có phương án gì để tháo gỡ vấn đề này?
Thứ trưởng Nguyễn Văn Sinh: Để giải quyết vấn đề này, nhiều tổ chức, cá nhân và nhà khoa học ở nước ta đang nghiên cứu sử dụng các loại vật liệu thay thế. Nhiều quốc gia trên thế giới đã khai thác và sử dụng cát biển để xây dựng công trình từ nhiều chục năm trước, đặc biệt là các quốc gia có tốc độ xây dựng hạ tầng nhanh và sớm bị cạn kiệt nguồn cát sông như Nhật Bản, Mỹ, Anh, Singapore và một số nước Trung Đông.
Qua các nghiên cứu điều tra đánh giá trữ lượng tài nguyên, thử nghiệm chất lượng, bước đầu cho thấy cát biển có tiềm năng sử dụng cho công trình giao thông, các tính chất cơ lý (lún, chuyển vị ngang…) khi thử nghiệm đều đảm bảo tiêu chuẩn cho phép. Tuy nhiên, việc khai thác và sử dụng cát biển với khối lượng lớn sẽ cần phải có đánh giá kỹ về tác động môi trường, hệ sinh thái biển, cây trồng nông nghiệp, nguy cơ lũ lụt. Do đó, để thay thế được cát sông, cần phải tiếp tục so sánh các yếu tố nhằm đảm bảo hài hòa các yếu tố kinh tế – kỹ thuật – môi trường. Trong đó, yếu tố môi trường cần phải được đánh giá đầy đủ cả ở 2 nơi là nơi khai thác và nơi sử dụng.
PV: Theo ông, để thay thế lượng đất, cát đắp nền đường, giải pháp sử dụng tro, xỉ nhiệt điện có đặt được hiệu quả cao?
Thứ trưởng Nguyễn Văn Sinh: Nguồn cung về tro, xỉ nhiệt điện tại Việt Nam là rất lớn, tới từ 30 nhà máy nhiệt điện, mỗi năm có khoảng 16 triệu tấn. Về hành lang pháp lý và kỹ thuật để sử dụng tro, xỉ nhiệt điện làm nguyên liệu sản xuất VLXD và vật liệu san lấp đã được hoàn thiện, ban hành, bao gồm các Nghị định, Thông tư và hệ thống tiêu chuẩn, chỉ dẫn kỹ thuật, định mức kinh tế kỹ thuật.
Các nhà máy nhiệt điện hiện cũng đang tích cực hỗ trợ cho các đơn vị xử lý, tiêu thụ để bù đắp chi phí vận chuyển tro xỉ đến các công trình xây dựng giao thông có vị trí không quá xa so với nơi phát thải để thay vật liệu san nền là cát sông. Cùng với các giải pháp kỹ thuật hợp lý, việc sử dụng tro xỉ làm vật liệu san lấp, nền đường ô tô tại các khu vực gần nguồn tro xỉ sẽ đem lại hiệu quả kinh tế – kỹ thuật so với việc sử dụng vật liệu san lấp truyền thống đang càng ngày càng khan hiếm.
PV: Để đặt được kết quả đột phá trong thi công các dự án trọng điểm, theo ông giải pháp về sử dụng cầu cạn trong xây dựng đường bộ cao tốc có phải là giải pháp bền vững không?
Thứ trưởng Nguyễn Văn Sinh: Hiện nay năng lực sản xuất xi măng và thép của Việt Nam rất lớn, nguồn cung là rất dồi dào: với 88 dây chuyền sản xuất xi măng có tổng công suất thiết kế 95 triệu tấn clanhke/năm để sản xuất 112 triệu tấn XM/năm, đứng thứ 3 thế giới về sản lượng.
Đối với thép hiện Việt Nam đang đứng thứ 13 thế giới về sản lượng thép với khả năng sản xuất thép thành phẩm gần 29,34 triệu tấn/năm. Như vậy, với sự chủ động về khả năng cung cấp với khối lượng lớn xi măng, sắt thép trong nước, giải pháp xây dựng đường trên cao bằng kết cấu bê tông cốt thép thay cho đường đắp bước đầu sẽ có nhiều thuận lợi. Vì vậy, việc xây dựng cầu cạn là giải pháp có nhiều ưu điểm như giảm thiểu xung đột giao thông, không có điểm cắt ngang, bảo đảm luôn chạy được tốc độ cao; giải quyết được bài toán khan hiếm đất, cát đắp nền đường, bảo đảm được tiến độ xây dựng, tiết kiệm được thời gian thi công; giảm thiểu tác động môi trường, hệ sinh thái; phù hợp đối với những khu vực có địa hình đất yếu như ĐBSCL, địa hình chia cắt như Tây Bắc, Đông Bắc hoặc khu vực nhiều mưa lũ như miền Trung.
Mặc dù có suất đầu tư cao hơn đường đắp nhưng với sự tiến bộ của công nghệ bê tông (đổ tại chỗ, đúc sẵn hàng loạt), có thể áp dụng một số giải pháp để hạ chi phí đầu tư các dự án đường trên cao như: sử dụng bê tông có chất lượng cao hơn để giảm lượng bê tông sử dụng, kéo dài nhịp, giảm số lượng trụ, giảm chi phí lao lắp dầm…
Đặc biệt, phương án xây dựng cầu cạn sẽ rất hiệu quả nếu tính toán chi phí cho cả vòng đời của dự án với các tiêu chí kinh tế-xã hội-môi trường, bao gồm tổng chi phí bảo trì, theo thời gian sử dụng.
PV: Trước các kiến nghị của địa phương và nhà thầu thi công về thực trạng khan hiếm vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng đã có đề xuất, kiến nghị như thế nào đối với Chính phủ và Bộ ngành liên quan, thưa ông ?
Thứ trưởng Nguyễn Văn Sinh: Về công tác quản lý Nhà nước về vật liệu xây dựng, Bộ đã có văn bản cáo cáo Chính phủ trong đó đề xuất Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét rà soát, kiểm tra việc thực hiện thủ tục cấp phép khai thác mỏ áp dụng cơ chế đặc thù theo Nghị quyết số 60/NQ-CP ngày 16/6/2021; Nghị quyết số 133/NQ-CP ngày 19/10/2021 về áp dụng cơ chế đặc thù trong cấp phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường cung cấp cho Dự án đầu tư xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc – Nam.
Sớm rà soát các bất cập trong các quy định về thủ tục để rút ngắn thời gian cấp phép mỏ cho nhà thầu, thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường; nghiên cứu quy định cho phép UBND các địa phương khu vực dự án được nâng công suất khai thác tại các mỏ để báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét bổ sung.
Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng xem xét, nghiên cứu đưa các nội dung quy hoạch mỏ vật liệu đất, đá, cát vào phạm vi của dự án ngay từ đầu để thẩm định, cấp phép cho dự án. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện dự án, làm rõ và chỉ ra được thực trạng nguồn vật liệu cung cấp cho từng dự án, thực trạng các mỏ vật liệu tại các địa phương để cân đối khả năng đáp ứng cho từng công trình.
PV: Xin cảm ơn ông!