Sáng 22/4 tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự và chủ trì Hội nghị gặp mặt các nhà đầu tư nước ngoài.
Với 100 đầu cầu trong nước và 83 đầu cầu nước ngoài, đây là Hội nghị trực tiếp, trực tuyến có quy mô lớn nhất từ trước tới nay với các nhà đầu tư nước ngoài. Trong hội nghị, trên cơ sở chỉ đạo và đồng hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đã có 3 tập đoàn trao đổi kế hoạch đầu tư mới và mở rộng kế hoạch đầu tư tại Việt Nam trong năm nay với tổng vốn đầu tư 3,7 tỷ USD.
Phát biểu kết luận Hội nghị, khái quát các ý kiến, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ một số vấn đề nổi lên gồm: Phản ứng chính sách; giải quyết thủ tục hành chính; phê duyệt dự án; tháo gỡ khó khăn về pháp lý; đề xuất sửa đổi cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong lúc khó khăn là chưa kịp thời, linh hoạt, chưa mang lại hiệu quả cao.
Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành, địa phương căn cứ, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tinh thần trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu, vì nước, vì dân, vì sự phát triển của doanh nghiệp, chủ động giải quyết kịp thời những vướng mắc mà các nhà đầu tư kiến nghị với trách nhiệm cao nhất, kịp thời, hiệu quả nhất, Chính phủ sẽ có cơ chế và kế hoạch kiểm tra các bộ, ngành địa phương thực hiện chỉ đạo này.
Thủ tướng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, ngành, địa phương liên quan nghiêm túc tiếp thu các ý kiến của các doanh nghiệp, nhà đầu tư; chủ động xử lý ngay theo thẩm quyền hoặc kịp thời tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền theo quy định. Đồng thời, các cơ quan khẩn trương hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành văn bản chỉ đạo là sản phẩm sau Hội nghị về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài.
Thủ tướng dành thời gian về phân tích 3 vấn đề lớn: Khái quát tình hình và thực trạng kinh tế Việt Nam; đóng góp của các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài; định hướng, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới.
VỀ ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT BỐI CẢNH TÌNH HÌNH VÀ THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Thủ tướng đánh giá, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, tác động, ảnh hưởng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội đến hầu hết các quốc gia, khu vực.
Trong đó, có thể khái quát thành 6 điểm chính: (1) Hậu quả của đại dịch COVID-19 tiếp tục kéo dài và tác động nặng nề; (2) Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột ở Ukraine diễn biến ngày càng phức tạp; (3) Tình hình lạm phát cao và chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất kéo dài dẫn đến suy giảm tăng trưởng và nguy cơ suy thoái ở nhiều quốc gia; (4) Các thị trường lớn, truyền thống của Việt Nam bị thu hẹp; (5) Rủi ro trên các thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản thế giới gia tăng; (6) Thiên tai, biến đổi khí hậu, dịch bệnh ngày càng bất thường, tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống trên phạm vi toàn cầu, nguy cơ khủng hoảng lương thực, khủng hoảng năng lượng.
Trong bối cảnh đầy khó khăn, thách thức đó, trên cơ sở kiên định, kiên trì các mục tiêu, định hướng chiến lược đề ra; đồng thời ứng phó linh hoạt, uyển chuyển, phản ứng chính sách phù hợp, kịp thời, sát thực tiễn, trong điều kiện một nước đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi, độ mở cao trong khi sức chống chịu còn hạn chế, Việt Nam đã giảm thiểu được những tác động bất lợi của các yếu tố từ bên ngoài và bên trong, đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện trên các lĩnh vực.
Nổi bật là, vừa thực hiện quyết liệt các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19; vừa tập trung triển khai các giải pháp thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội. Thực hiện nhất quán, hiệu quả mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Trong đó, điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô (về tiền tệ, tài khoá, thương mại, đầu tư…) chắc chắn, chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả; bảo đảm ổn định, an toàn hệ thống ngân hàng.
Nhờ đó, mặt dù gặp rất nhiều khó khăn từ bên ngoài và bên trong, Việt Nam đã đạt được kết quả trên cả 3 phương diện: (i) Kiểm soát lạm phát ở mức thấp (dưới 3,5%) trong khi lạm phát thế giới tăng rất cao; (2) Duy trì tăng trưởng dương giai đoạn 2020-2021 và đạt mức cao năm 2022 mặc dù chịu “tác động kép” rất nặng nề từ dịch COVID-19, từ các yếu tố bên ngoài và bên trong; (3) Các cân đối lớn được giữ vững, có mặt cải thiện (trong đó, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2022 đạt trên 730 tỷ USD, thuộc nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới; bội chi ngân sách nhà nước giảm, nợ công chỉ còn khoảng 38% GDP, nợ Chính phủ khoảng 34,7% GDP).
Đại diện các hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam nêu ý kiến tại Hội nghị – Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Các đột phá chiến lược về thể chế, hạ tầng và nguồn nhân lực được tập trung triển khai thực hiện hiệu quả; trong đó việc rà soát, hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương.
Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện, góp phần thúc đẩy việc thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài trong bối cảnh rất khó khăn. Vốn đầu tư toàn xã hội năm 2022 tăng 11,2%, trong đó, vốn FDI thực hiện đạt 22,4 tỷ USD. Tính đến hết quý I/2023, các nhà đầu tư từ 143 quốc gia, vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam với tổng số khoảng 37.000 dự án còn hiệu lực và tổng vốn đầu tư gần 445 tỷ USD.
Việt Nam là một số ít quốc gia được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế uy tín nâng mức tín nhiệm quốc gia trong bối cảnh cả thế giới gặp khó khăn. Moody’s nâng xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng “Ổn định”. S&P nâng xếp hạng tín nhiệm của VN từ mức BB lên BB+, triển vọng “Ổn định”. Fitch duy trì xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam ở mức BB, triển vọng “Tích cực”.
Việt Nam là quốc gia được đánh giá cao trong việc xây dựng, phát triển và có thương hiệu quốc gia đạt tốc độ tăng trưởng giá trị nhanh nhất thế giới trong giai đoạn 2020-2022. Theo báo cáo của Brand Finance, giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam năm 2020 đạt 319 tỷ USD (tăng 29,1% so với năm trước); năm 2021 đạt 388 tỷ USD (tăng 21,6%); năm 2022 đạt 431 tỷ USD (tăng 11,1%).
Đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng lên với quan điểm xuyên suốt coi con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, động lực, nguồn lực cho sự phát triển; không hy sinh tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội để chạy theo tăng trưởng đơn thuần. Xếp hạng hạnh phúc của Việt Nam tăng 12 bậc, lên thứ 65 trong Báo cáo Hạnh phúc Thế giới.
Đặc biệt, Việt Nam đang tập trung phát huy các yếu tố nền tảng quan trọng cho phát triển bền vững: (i) Là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, thân thiện, hài hòa, có lịch sử hào hùng đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; càng khó khăn càng đoàn kết, thống nhất, nỗ lực vươn lên, “biến nguy thành cơ”; (ii) Có nền văn hóa lâu đời, phong phú, đa dạng; (iii) Con người cần cù, bản lĩnh, cầu thị, sáng tạo, thân thiện và mến khách.
Tình hình chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; bảo đảm an ninh, an toàn, an dân. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được đẩy mạnh; đồng thời bảo đảm, bảo vệ những người làm ăn chân chính, tuân thủ pháp luật và có trách nhiệm với cộng đồng, với sự phát triển chung; góp phần củng cố niềm tin trong nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư.
Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung và Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu – Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Công tác đối ngoại được triển khai toàn diện, thực chất, hiệu quả trên cơ sở kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn bè tốt, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, thực chất, hiệu quả. Kết hợp sức mạnh bên trong và bên ngoài, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, lấy nguồn lực bên trong là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng và đột phá, trong đó có nguồn lực đầu tư nước ngoài.
Những kết quả nêu trên thể hiện sự đúng đắn của các định hướng, quyết sách đề ra, được nhân dân và cộng đồng quốc tế đánh giá cao; qua đó, góp phần tích cực vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước sau gần 40 năm đổi mới. Năm 2022, quy mô nền kinh tế đạt 409 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu người đạt trên 4.100 USD. Việt Nam đã ký kết, triển khai hiệu quả 15 Hiệp định thương mại tự do (FTA) kết nối với hơn 60 nền kinh tế, thị trường lớn nhất thế giới; đồng thời đóng vai trò quan trọng trong các diễn đàn song phương, đa phương, trong đó có CPTPP, RCEP…
Về tồn tại, hạn chế và khó khăn, thách thức, Thủ tướng nêu rõ, ổn định kinh tế vĩ mô chưa thật sự vững chắc; sức ép lạm phát còn cao. Tình hình bất ổn bên ngoài tiếp tục tác động, ảnh hưởng lớn đến Việt Nam.
Tăng trưởng GDP quý I/2023 chỉ đạt 3,32%, do một số ngành công nghiệp chủ lực (dệt may, điện tử, đồ gỗ, chế biến chế tạo…) giảm hoặc tăng thấp (chủ yếu vì nhu cầu ở các thị trường quốc tế lớn, truyền thống giảm mạnh).
Hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn; chi phí đầu vào tăng; tiếp cận vốn, tín dụng, thị trường còn nhiều trở ngại; các thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản còn khó khăn.
Đời sống một bộ phận người dân, người lao động còn khó khăn. Tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội ở một số địa bàn, lĩnh vực diễn biến phức tạp …
Những tồn tại, hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhất là: (1) Tác động, ảnh hưởng rất nặng nề do nhiều thị trường quốc tế lớn, truyền thống suy giảm mạnh; (2) Những hạn chế, bất cập nội tại kéo dài từ nhiều năm đang bộc lộ rõ, tác động tiêu cực đến nhiều ngành, lĩnh vực; (3) Công tác quản lý nhà nước có lúc, có nơi còn sự thiếu chủ động, tích cực trong nắm bắt tình hình và phản ứng chính sách; (4) Sự né tránh, đùn đẩy trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức; (5) Sự phối hợp chưa chặt chẽ, kém hiệu quả giữa một số bộ, cơ quan, địa phương…
VỀ VAI TRÒ VÀ ĐÓNG GÓP CỦA CÁC DOANH NGHIỆP, NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Thủ tướng nhấn mạnh: Có được những thành quả như trên nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự ủng hộ, đoàn kết, đồng hành của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Việt Nam rất trân trọng, đánh giá cao sự hợp tác và hỗ trợ quý báu của bạn bè, đối tác quốc tế, đặc biệt là các nhà đầu tư, ngay cả trong những lúc rất khó khăn như những năm đầu Đổi mới, trong các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, đại dịch COVID-19.
Trong những năm qua, hoạt động FDI tại Việt Nam ngày càng sôi động; ngày càng nhiều tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp FDI lớn với công nghệ hiện đại đang đầu tư, mở rộng đầu tư với chất lượng, hiệu quả ngày càng tăng.
“Mặc dù còn có những hạn chế, bất cập, nhưng nhìn chung, các nhà đầu tư đều chia sẻ, thấu hiểu, đồng hành với Việt Nam. Người Việt Nam có câu: Non cao cũng có đường trèo/Đường dù hiểm nghèo cũng có lối đi. Người Việt Nam vốn rất linh hoạt, cộng với sự chia sẻ, đồng hành và linh hoạt của các nhà đầu tư thì nhất định các khó khăn sẽ được xử lý, thách thức sẽ được vượt qua.
Nhân dịp này, thay mặt Chính phủ Việt Nam, tôi ghi nhận, đánh giá cao và trân trọng cảm ơn sự chung tay, đồng hành, hỗ trợ, chia sẻ khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư nói chung và các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài nói riêng trong thời qua, nhất là trong cuộc chiến phòng, chống dịch COVID-19 và nỗ lực cùng Việt Nam vượt qua thách thức, thực hiện mục tiêu phục hồi nhanh và phát triển bền vững”, Thủ tướng phát biểu.
VỀ ĐỊNH HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM THỜI GIAN TỚI
Thủ tướng đánh giá, thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực dự báo diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều vấn đề mới phát sinh, như ý kiến của nhiều đại biểu đã nêu. Trong đó, việc OECD chuẩn bị kế hoạch áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu từ năm 2024 sẽ ảnh hưởng đến hoạt động FDI trên phạm vi toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Hội nghị thống nhất cao về nhận định, đánh giá tình hình chung: khó khăn, thách thức tiếp tục nhiều hơn thời cơ, thuận lợi, tác động, ảnh hưởng đa chiều đến các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Theo Thủ tướng, tình hình lúc nào cũng có những khó khăn, hết khó khăn này lại đến khó khăn khác cần giải quyết. Vì vậy, cần tăng cường phân tích, đánh giá tình hình, dự báo những vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam để có đối sách phù hợp, xác định một số trọng tâm, trọng điểm, các bên cùng cố gắng với tinh thần chia sẻ, thấu hiểu, đồng hành, lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ, vì lợi ích chung của cả 2 phía: cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư và Nhà nước, nhân dân Việt Nam.
Thủ tướng nêu rõ quan điểm xây dựng các yếu tố nền tảng thu hút đầu tư:
(1) Thực hiện nhất quán mục tiêu ưu tiên kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; qua đó tạo nền tảng vững chắc và điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư.
(2) Tiếp tục quyết liệt tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo tinh thần “lợi ích hài hoà, rủi ro chia sẻ”; tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư làm ăn, kinh doanh có hiệu quả, lâu dài, bền vững tại Việt Nam.
(3) Tập trung huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực; lấy nội lực là cơ bản, quyết định, lâu dài; ngoại lực là quan trọng, đột phá; trong đó xác định rõ đầu tư nước ngoài là một nguồn lực quan trọng để góp phần thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm công ăn, việc làm, đời sống cho nhân dân.
(4) Đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện thực chất, hiệu quả. Nâng cao sức chống chịu và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
(5) Đồng thời, tiếp tục tập trung xây dựng, hoàn thiện các yếu tố nền tảng căn bản, mang tính cốt lõi của Việt Nam: (i) Nền dân chủ XHCN (phát huy tối đa năng lực của các chủ thể trong xã hội, trong đó có toàn bộ các doanh nghiệp đầu tư tại Việt Nam); (ii) Nhà nước pháp quyền XHCN (mọi người dân, doanh nghiệp hoạt động theo luật pháp và được bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mình); (iii) Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (tôn trọng các quy luật thị trường, nhất là quy luật cung cầu, cạnh tranh và bảo đảm sự can thiệp của Nhà nước khi cần thiết).
Các định hướng lớn thu hút đầu tư của Việt Nam gồm:
– Việt Nam tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi, xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh an toàn, minh bạch, có tính cạnh tranh cao để cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư, trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư lâu dài tại Việt Nam với tinh thần bình đẳng, cùng phát triển, cùng có lợi, cùng có trách nhiệm với xã hội, người lao động, bảo vệ môi trường; đặc biệt là bảo đảm lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ. Tiếp tục cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính.
– Việt Nam chủ trương thu hút, hợp tác đầu tư có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Trong đó, ưu tiên thu hút các dự án trên 3 phương diện: (i) Thuộc lĩnh vực công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, nghiên cứu phát triển; (ii) Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị; (iii) Thúc đẩy kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững.
– Việt Nam cam kết tạo lập môi trường kinh doanh tốt nhất hướng đến các chuẩn mực của OECD. Đó là: (i) Giữ vững ổn định chính trị xã hội và kinh tế vĩ mô; (ii) Tháo gỡ những điểm nghẽn, khó khăn của nền kinh tế về thể chế pháp luật, hạ tầng cơ sở và nguồn nhân lực; (iii) Phát triển các chuỗi cung ứng, giảm chi phí giao dịch, đặc biệt là chi phí về logistics và chi phí hành chính; (iv) Xây dựng môi trường – chính sách ổn định, có tính dự báo cao, bảo đảm thực thi minh bạch và đề cao trách nhiệm giải trình.
Chỉ rõ những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới, Thủ tướng đề nghị các Bộ, ngành, địa phương:
– Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, triển khai nghiêm túc, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi hơn nữa với phương châm “Lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, động lực và nguồn lực phát triển”; không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội, an sinh xã hội và môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.
– Thứ hai, tiếp tục đánh giá thực trạng tình hình, rà soát, tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách hợp tác đầu tư nước ngoài có tính cạnh tranh cao, hội nhập quốc tế, bảo đảm yếu tố cân đối, hợp lý, linh hoạt trên cơ sở đặc trưng của các địa phương, vùng miền, đảm bảo phù hợp với định hướng, quy hoạch và yêu cầu phát triển theo tinh thần Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị.
– Thứ ba, tập trung triển khai đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 06/01/2023 của Chính phủ và Chỉ thị số 03 ngày 27/1/2023 của Thủ tướng Chính phủ. Trong bối cảnh hiện nay, cần đặc biệt quan tâm, sớm có những giải pháp mới, có tính đột phá để tạo điều kiện thuận lợi, tiết giảm chi phí cho các doanh nghiệp (nhất là về cơ cấu lại nợ, giãn nợ, miễn giảm lãi suất; giãn, hoãn, miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất; đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công và đầu tư tư nhân; phát triển thị trường trong nước gắn với mở rộng xuất khẩu, thúc đẩy các động lực tăng trưởng cả về tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu…)
– Thứ tư, đối với các kiến nghị, đề xuất của doanh nghiệp, nhà đầu tư, trong đó có nhà đầu tư nước ngoài, cần nghiêm túc lắng nghe với tinh thần cầu thị; “không nói không, không nói khó, không nói có mà không làm”, trên cơ sở đó, kịp thời có biện pháp xử lý hiệu quả, nhất là những khó khăn, vướng mắc thực tế mà các doanh nghiệp, nhà đầu tư đề xuất, kiến nghị (như tiếp cận vốn tín dụng, chứng khoán, trái phiếu, bất động sản, đất đai, thủ tục hành chính, thuế, phí, lệ phí, phòng cháy chữa cháy, bảo vệ môi trường, xử lý nước thải, khí thải…)
– Thứ năm, đẩy mạnh hợp tác công tư, khơi thông, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, trong đó có phát triển hệ thống hạ tầng chiến lược gắn với hoàn thiện thể chế, đào tạo nhân lực chất lượng cao. Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết (về pháp lý, quỹ đất, hạ tầng, năng lượng, lao động…) để đón vốn đầu tư mới, nhất là các dự án FDI có tính lan tỏa cao, tác động thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
– Thứ sáu, tăng cường công tác nắm tình hình, dự báo sát thực tiễn để có phản ứng chính sách phù hợp, linh hoạt, kịp thời ứng phó với các tình huống phát sinh, nhất là những cơ chế, chính sách phù hợp, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước, ngoài nước, thúc đẩy sự hợp tác chặt chẽ, hiệu quả giữa Nhà nước, người dân, doanh nghiệp.
Đối với cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư:
– Thứ nhất, xây dựng chiến lược kinh doanh lâu dài, bền vững, thân thiện môi trường, tập trung vào các ngành mới nổi như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, đổi mới sáng tạo, kinh tế tri thức, ứng phó biến đổi khí hậu.
– Thứ hai, tuân thủ đúng pháp luật, thực hiện tốt văn hóa doanh nhân, chế độ, chính sách đối với người lao động và đồng hành với chính quyền các cấp, góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đem lại giá trị gia tăng cao, vì lợi ích của Nhà nước, doanh nghiêp, nhà đầu tư và người dân, tích cực tham gia bảo đảm an sinh xã hội.
– Thứ ba, các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài cần nêu cao tinh thần “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ”; “đã nói là phải làm; đã cam kết phải thực hiện hiệu quả”, bằng năng lực, trí tuệ, kinh nghiệm để chuyển hóa những khó khăn, thách thức thành cơ hội, động lực phát triển.
– Thứ tư, chủ động đổi mới mô hình sản xuất kinh doanh, tái cấu trúc doanh nghiệp gắn với phát triển theo kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, không ngừng đổi mới, sáng tạo, xây dựng và nâng cao thương hiệu..
– Thứ năm, các hiệp hội là “cánh tay nối dài” của Chính phủ với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, cần kịp thời thông tin, báo cáo các vướng mắc, khó khăn của các hội viên, doanh nghiệp, nhà đầu tư trong quá trình hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam; tích cực tham gia tư vấn chính sách, chia sẻ các kinh nghiệm hay, bài học quý.
“Thành công của các nhà đầu tư cũng là thành công của Việt Nam. Việt Nam luôn chào đón và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư cùng thắng, cùng Việt Nam phát triển. Đề nghị chúng ta hãy cùng chung tay, chung sức, đồng lòng, bằng những hành động thiết thực, hiệu quả, nỗ lực phấn đấu vì một thế giới hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển và không ai bị bỏ lại phía sau.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy: Nguồn lực bắt nguồn từ tư duy; động lực bắt nguồn từ đổi mới; thành công đến từ sự hợp tác, tin tưởng, chung sức, đồng lòng. Tôi mong muốn và tin tưởng rằng, với tinh thần đoàn kết, sẻ chia, chung tay, cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư nói chung và các nhà đầu tư nước ngoài nói riêng sẽ luôn đồng hành cùng Chính phủ và nhân dân Việt Nam nỗ lực khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, tiếp tục quyết liệt hành động và đạt được nhiều thành công hơn nữa, mang lại lợi ích thiết thực, lâu dài, bền vững cho cả cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư, Nhà nước và nhân dân Việt Nam”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Cũng tại Hội nghị, Thủ tướng và lãnh đạo các bộ ngành đã giải đáp cụ thể các vấn đề cụ thể mà các đại biểu quan tâm.
Về vấn đề OECD áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu, theo Thủ tướng, Việt Nam luôn đề cao việc tuân thủ luật pháp và chủ động, tích cực tham gia các cam kết chung của quốc tế, trong đó có các cam kết về thuế tối thiểu toàn cầu của OECD (trong khuôn khổ Sáng kiến chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận của OECD).
Chính phủ đã và đang chỉ đạo khẩn trương rà soát, có các giải pháp thu hút đầu tư, hỗ trợ khác ngoài thuế trên cơ sở không trái với các quy định và cam kết quốc tế, hài hòa lợi ích giữa các bên, bảo đảm ứng xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp (như hỗ trợ liên quan đến đất đai; chi phí nghiên cứu khoa học và công nghệ; cải cách thủ tục hành chính; phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân; đào tạo nguồn nhân lực; phát triển hạ tầng…) để khuyến khích các nhà đầu tư hiện hữu và các nhà đầu tư mới.
Đồng thời, tập trung rà soát, hoàn thiện thể chế, quy định và xây dựng lộ trình áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế và áp dụng phù hợp với Việt Nam trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Về các vấn đề khác, Thủ tướng cho biết, Chính phủ đang trình Quốc hội xử lý các vấn đề liên quan thị thực. Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã có giải đáp về vấn đề lao động. Các cơ quan đang tiếp tục xử lý các vấn đề liên quan tới phòng cháy, chữa cháy (Bộ Công an, Bộ Xây dựng và các Bộ ngành liên quan), thuốc, vật tư y tế (Bộ Y tế), năng lượng (quy hoạch điện VIII, điện gió, điện mặt trời, điện áp mái, thí điểm cơ chế mua bán điện trực tiếp) (Bộ Công Thương), thủ tục cấp phép vận hành các cơ sở giáo dục (Bộ Giáo dục và Đào tạo), đánh giá tác động môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường)…