Theo các doanh nghiệp (DN) thủy sản, thị trường được đề cập ở đây trước hết phải nói đến là thị trường tiêu thụ sản phẩm (bao gồm trong và ngoài nước); thị trường thức ăn, thuốc thú y thủy sản và con giống. Đây là 3 thị trường quan trọng để thực hiện chuỗi giá trị ngành hàng chúng ta đã làm trong 35 năm qua (kể từ khi Việt Nam xuất khẩu lô hàng cá tra đầu tiên sang Úc vào năm 1988).
Trên cơ sở những dự báo về thị trường, DN và ngư dân đi vào tổ chức sản xuất để đáp ứng nhu cầu. Đây là cách làm khoa học, một mặt phản ánh trình độ sản xuất của DN lẫn ngư dân trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mặt khác giúp khách hàng (các tập đoàn mua sản phẩm) ổn định kế hoạch phân phối và phát triển thị trường. Nếu theo phương thức này, đầu vào ổn thì đầu ra sẽ ổn, ngành hàng cá tra không phải chứng kiến điệp khúc “được mùa – mất giá, được giá – mất mùa”.
“Năm nào sản lượng nuôi cá tra thấp hơn nhu cầu thì năm đó ngư dân, DN, khách hàng mua sản phẩm đều có lợi nhuận. Ngược lại, năm nào sản lượng nuôi vượt xa nhu cầu tiêu thụ thì năm đó tất cả cùng thua lỗ. Như vậy, thà nuôi ít, bán có giá còn hơn nuôi nhiều bán không được” – ông Doãn Tới (Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Nam Việt) khẳng định.
Thực tế của ngành hàng này là vậy, tuy nhiên, trong 35 năm qua, khi cá tra thương phẩm đạt từ 36.000 đồng/kg trở lên (tháng 10/2018), ngay lập tức diện tích thả nuôi tăng lên nhanh chóng, mất cân đối cung – cầu. Năm ấy, toàn vùng ĐBSCL thả nuôi đến 5.600ha, trong đó An Giang nuôi 1.700ha. Hệ lụy của vấn đề này, sản phẩm không tiêu thụ được, giá cá rớt thê thảm.
Đặc biệt, trong hơn 1 năm qua, thế giới rơi vào suy thoái kinh tế, việc tiêu thụ cá tra trở nên khó khăn bởi người tiêu dùng tiết kiệm chi tiêu, ngư dân lẫn DN hiện đang trong tình trạng “nín thở” chờ giá cá tra tăng trở lại.
Sản xuất phải bắt đầu từ thị trường, đây là điều kiện tiên quyết để ngành hàng này phát triển ổn định. Để làm được điều đó, cần tiếp tục phát huy vai trò của hiệp hội ngành hàng, có cơ chế kiểm soát nghiêm ngặt quy hoạch nuôi, đồng thời xây dựng cơ chế kiểm soát giá thức ăn lẫn thuốc thú y thủy sản trên thị trường hiện nay.
An Giang là một trong những địa phương đi đầu trong phát triển ngành nuôi và chế biến cá tra xuất khẩu với diện tích nuôi năm 2022 đạt 1.978ha, bằng 111,1% so cùng kỳ năm 2021. Sản lượng hàng năm đạt trên 400.000 tấn.
Toàn tỉnh hiện có 20 DN, với 23 nhà máy chế biến cá tra, công suất chế biến đạt 323.420 tấn/năm. Năm 2022, mặc dù vừa bước ra khỏi dịch bệnh nhưng các DN trong tỉnh đã xuất khẩu mặt hàng cá đạt 162.000 tấn, thu ngoại tệ về cho tỉnh đạt 380 triệu USD, tăng 1,59% về lượng và tăng 2,03% về kim ngạch so năm 2021.
Những số liệu trên cho thấy, ngành hàng cá tra vẫn còn rất nhiều tiềm năng để phát triển, trước hết, diện tích nuôi gần cán mức 2.000ha, trong khi công suất chế biến của 23 nhà máy mới chỉ đạt phân nửa công suất thiết kế.
Lợi thế về nguồn nước, khí hậu, thổ nhưỡng lẫn kinh nghiệm sản xuất là rất lớn, vì vậy để ngành hàng này tiếp tục phát triển trong thời gian tới, nhà nước cần đẩy mạnh việc hoạch định lại ngành hàng này theo hướng kiểm soát chặt chẽ diện tích thả nuôi khi giá cá tăng cao. Thà nuôi ít, bán có giá còn hơn nuôi nhiều bán chậm.
Cần có cơ chế kiểm soát giá thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y thủy sản để giá thành nuôi không biến động như hiện nay. Tiếp tục thực hiện chương trình giống cá tra 3 cấp để DN lẫn ngư dân có đầy đủ con giống khỏe, sạch bệnh, giúp tỷ lệ sống của cá tra giống thả vào hầm nuôi thương phẩm ngày một cao hơn.
“Tỷ lệ sống của con giống khi thả vào hầm nuôi thương phẩm rất thấp, có khi con giống thả vào chết gần phân nửa, điều này làm cho giá thành nuôi tăng lên mức 27.000 – 28.000 đồng/kg, trong khi giá bán chỉ có 26.500 đồng/kg (như hiện nay)…” – ông Trần Văn Nam (ngư dân xã Vĩnh Hòa, TX. Tân Châu) chia sẻ.
“Tôi đề xuất với các cơ quan chức năng, thời gian tới cần đẩy mạnh công tác dự báo, cụ thể là dự báo về thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường thức ăn, thuốc thú y thủy sản và thị trường cá giống. Việc này nhằm giúp DN, ngư dân có những hoạch định chính xác cho mỗi mùa vụ thả nuôi, làm sao sản lượng nuôi vừa đủ hoặc thiếu chút ít thì giá bán sẽ tốt hơn, nhằm giảm thiểu rủi ro không cần thiết…” – ông Nguyễn Mạnh Cường (ngư dân xã Hòa Lạc, huyện Phú Tân) kiến nghị.
|
MINH HIỂN