TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa có báo cáo Đánh giá nhanh tác động của Thông tư số 02/2023/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ và Thông tư số 03/2023/TT-NHNN quy định ngưng hiệu lực thi hành khoản 11 Điều 4 Thông tư số 16/2021/TT-NHNN ngày 10/11/2021 quy định việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán trái phiếu doanh nghiệp.
Hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt khó
Theo nhóm tác giả, Thông tư 02 và Thông tư 03 được ban hành kịp thời ngay sau khi có chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tại Nghị quyết 50/NQ-CP ngày 8/4/2023 và Nghị quyết 59/NQ-CP ngày 23/4/2023. Mục đích của hai chính sách này là nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp về nợ cơ cấu lại và trái phiếu doanh nghiệp, góp phần hỗ trợ phục hồi, tiếp tục duy trì sản xuất kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng. Qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2023 và năm tiếp theo trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức, tác động tiêu cực đến người dân, doanh nghiệp, xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng và nền kinh tế.
Ảnh minh họa |
Đối với quy định tại Thông tư 02 cho phép các tổ chức tín dụng chủ động cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ với một số điều kiện cụ thể với thời hạn một năm kể từ ngày được cơ cấu lại nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn về tài chính, vốn hiện nay, trên cơ sở đánh giá thực trạng khách hàng, khả năng trả nợ, năng lực tài chính của tổ chức tín dụng. Việc này được thực hiện từ nay đến hết tháng 6/2023.
“Thông tư 02 giúp các doanh nghiệp, bên vay (gồm cả vay tiêu dùng) giảm áp lực tài chính, áp lực trả nợ và nợ xấu khi được cơ cấu lại và không phải chuyển nhóm nợ, đồng thời tiếp tục được tiếp cận vốn vay mới (do được giữ nguyên nhóm nợ), giúp doanh nghiệp, bên vay có nguồn vốn duy trì sản xuất kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng. Qua đó góp phần phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội năm 2023 và tiếp theo. Điều kiện áp dụng ở đây là doanh nghiệp, bên vay cần có đề nghị, có phương án trả nợ khả thi và làm ăn tuân thủ pháp luật”, nhóm tác giả đánh giá.
Thông tư 03, hiệu lực từ nay đến hết ngày 31/12/2023, cho phép các tổ chức tín dụng được mua lại trái phiếu doanh nghiệp đã bán trước đó (mà không cần chờ sau 1 năm như quy định cũ), theo nhóm tác giả, điều khoản này sẽ hỗ trợ các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp có dòng tiền để xử lý một phần lượng trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn trong năm 2023 (tập trung vào quý II và quý IV). Qua đó doanh nghiệp có thể dùng nguồn vốn đang có để duy trì sản xuất kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng, vượt qua khó khăn, góp phần phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội.
Tuy nhiên, điều kiện ở đây là doanh nghiệp phải ở mức xếp hạng tín dụng nội bộ cao nhất của tổ chức tín dụng tức là có tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh khá lành mạnh và tùy thuộc vào đánh giá, khẩu vị rủi ro và năng lực tài chính của các tổ chức tín dụng. Như vậy, có thể thấy lượng trái phiếu doanh nghiệp được mua lại sẽ không nhiều…
Việc Thông tư 03 cho phép các tổ chức tín dụng cơ cấu lại nợ, không chuyển nhóm nợ đối với một số doanh nghiệp, bên vay với điều kiện và thời hạn trên, theo Nhóm đánh giá tác giả, sẽ góp phần giảm một phần áp lực nợ xấu và duy trì cho vay đối với doanh nghiệp, bên vay được cơ cấu lại.
Đồng thời, nhằm đảm bảo đánh giá sát tình hình nợ và có nguồn lực xử lý nợ xấu (nếu xảy ra), các tổ chức tín dụng vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng bổ sung theo lộ trình (50% năm 2023 và đủ 100% đến hết năm 2024), có phần bớt áp lực trích lập dự phòng rủi ro . Tuy nhiên, như khi thực hiện các Thông tư về cơ cấu lại nợ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 giai đoạn 2020-2021, nhiều tổ chức tín dụng sẽ chủ động đánh giá nợ, trích lập đầy đủ dự phòng rủi ro từ trước và hiện nay mức độ bao phủ nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng khá tốt (125% nợ xấu).
Dự báo mức độ tác động đến chất lượng tín dụng và lợi nhuận của các tổ chức tín dụng là không quá lớn, trong tầm kiểm soát. Hiện nay, các tổ chức tín dụng đang tích cực đánh giá phạm vi cơ cấu lại nợ sơ bộ để có phương án phù hợp. Điểm khác biệt lớn là lần này nợ cơ cấu lại bao gồm cả các khoản vay tiêu dùng, nên qui mô cơ cấu lại có thể lớn hơn giai đoạn dịch Covid-19.
Tăng cường giám sát, phối hợp triển khai hiệu quả chính sách
Thông tư 02, 03 được nhận định là những quyết sách mạnh, được doanh nghiệp, người dân và tổ chức tín dụng kỳ vọng với một số tác động chính như giúp ngăn gia tăng nợ xấu nội bảng của các tổ chức tín dụng, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, của bên vay, hỗ trợ thanh khoản, khó khăn của thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong năm 2023 và đến giữa năm 2024, qua đó góp phần tháo gỡ khó khăn về dòng tiền, dòng vốn cho doanh nghiệp, người dân, duy trì sản xuất kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng, tạo dòng tiền mới để trả nợ đáo hạn và mở rộng sản xuất kinh doanh sau này”, nhóm tác giả nhấn mạnh và lưu ý, do hai Thông tư chỉ có hiệu lực áp dụng đến hết năm 2023 (Thông tư 03) hay đến giữa năm 2024 (Thông tư 02), còn sau đó sẽ tùy thuộc khá nhiều vào khả năng phục hồi, duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bên vay.
Khi đó, sẽ phụ thuộc vào tình hình môi trường kinh doanh bên ngoài cũng như sự vận động, linh hoạt, thích ứng, sản xuất kinh doanh hiệu quả của mỗi doanh nghiệp, bên vay được cơ cấu lại hay được mua lại trái phiếu doanh nghiệp… Bằng không, rủi ro nợ xấu có thể tăng lên sau đó, ảnh hưởng tiêu cực đến cả doanh nghiệp, bên vay và tổ chức tín dụng. Chính vì vậy, Nhóm tác giả cho rằng, đòi hỏi các bên liên quan thiện chí, nỗ lực, quyết tâm thực hiện một số kiến nghị dưới đây.
Một là, các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục quyết tâm, nghiêm túc thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 6/1/2023; các chỉ thị, nghị quyết, nghị định gần đây của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; cùng với việc tiếp tục bám sát tình hình; chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế để có kịch bản ứng phó phù hợp; tiếp tục bình ổn, lành mạnh hóa các thị trường (nhất là thị trường tài chính, bất động sản) nhằm củng cố niềm tin nhà đầu tư và người dân. Các trung tâm kinh tế như TP.Hồ Chí Minh, Hà Nội… cần phát huy tốt hơn vai trò đầu tàu, lan tỏa và kết nối của mình.
Hai là,quyết tâm đẩy mạnh triển khai Chương trình phục hồi và giải ngân đầu tư công; tiếp tục chú trọng cơ cấu lại nền kinh tế nhằm thu hút và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, vừa hỗ trợ giải tỏa vốn ngân sách tồn đọng, nợ đọng giữa các doanh nghiệp với nhau, vừa góp phần phục hồi, thúc đẩy tăng trưởng năm 2023 và lâu dài.
Ba là,nâng cao hơn nữa hiệu quả trong phối hợp chính sách (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách giá cả và các chính sách vĩ mô khác) nhằm đảm bảo thực hiện tốt các cân bằng: giữa kiểm soát lạm phát và tăng trưởng, giữa cân đối ngân sách và hỗ trợ doanh nghiệp, người dân. Chính sách tài khóa tiếp tục là chủ đạo, với cách tiếp cận là mở rộng có trọng tâm, trọng điểm, đúng chỗ, đúng lúc (nhất là các chính sách giãn, hoãn, giảm thuế, phí, tiền thuê đất, thuế VAT…) mới đảm bảo cùng trợ lực cho doanh nghiệp, người dân và giúp chính sách tiền tệ phát huy hiệu quả tốt hơn. Chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, nới lỏng phù hợp, vừa giảm lãi suất hỗ trợ phục hồi, tăng trưởng, vừa giữ lạm phát trong tầm kiểm soát.
Bốn là,NHNN và Bộ Tài chính cần theo dõi, đôn đốc, giám sát thực hiện và kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong quá trình triển khai, thực hiện.
Năm là,tổ chức tín dụng sớm có hướng dẫn nội bộ, chủ động đánh giá, theo dõi, trích lập dự phòng rủi ro, kiểm tra giám sát đảm bảo thực hiện đúng, giảm thiểu trục lợi, hướng dẫn và phối hợp truyền thông, triển khai thành công. Đồng thời, doanh nghiệp, bên vay cần nắm rõ phạm vi, đối tượng và điều kiện cơ cấu lại, điều kiện trái phiếu doanh nghiệp được mua lại, thiện chí phối hợp với các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp phát hành để hoàn thiện hồ sơ theo quy định .
Cuối cùng là, Bộ Tài chính cần sớm có điều chỉnh điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng phù hợp hơn, phê duyệt nhanh hơn, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp phát hành ra kênh này nhiều hơn, cùng với việc hoàn thiện chính sách phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp lành mạnh, an toàn, hiệu quả, giảm áp lực vốn trung dài hạn đối với hệ thống ngân hàng.