Khung mô tô, xe gắn máy phải đáp ứng yêu cầu kỹ thuật nào?
Theo đó, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khung xe mô tô, xe gắn máy QCVN 30:2024/BGTVT thay thế QCVN 30:2010/BGTVT năm 2010 áp dụng đối với các cơ sở sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu khung; cơ sở sản xuất, lắp ráp xe mô tô hai bánh, xe gắn máy hai bánh và các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc thử nghiệm, kiểm tra, chứng nhận chất lượng an toàn kỹ thuật đối với khung.
Tại Quy chuẩn mới, Bộ GTVT đã bổ sung một số thuật ngữ, trong đó quy định khung cùng kiểu loại là các khung có cùng kiểu dáng, cùng các thông số trong tài liệu kỹ thuật và cùng một dây chuyền công nghệ.
Tải trọng khung được tính bằng tổng khối lượng người và hàng hóa cho phép chở của loại xe tương ứng, và tổng khối lượng các cụm chi tiết, tổng thành, phụ kiện được đặt, treo lên khung.
Về kỹ thuật, Quy chuẩn QCVN 30:2024/BGTVT bổ sung quy định về sai số khối lượng khung theo đăng ký của cơ sở đăng ký thử nghiệm nhưng không vượt quá ± 10%.
Sai số kích thước chiều dày các chi tiết chính của khung (ống cổ, thân chính, thân khung) theo đăng ký của cơ sở đăng ký thử nghiệm nhưng không vượt quá ± 10%.
Sai số kích thước bao của mặt cắt ngang các chi tiết chính của khung (ống cổ, thân chính, thân khung) và các kích thước chiều dài khác theo đăng ký của cơ sở đăng ký thử nghiệm nhưng không vượt quá ± 5%.
Một thành viên trong ban soạn thảo cho biết, dù quy định kết cấu và thông số kỹ thuật của khung phải phù hợp với tài liệu kỹ thuật của nhà sản xuất hoặc cơ sở đăng ký thử nghiệm/chứng nhận cung cấp song đây là hạng mục khó đánh giá thế nào là phù hợp, trong khi đó, các nhà sản xuất cung cấp (nộp) tài liệu kỹ thuật khác nhau sẽ khiến cho việc đánh giá trở nên khó khăn, không giống nhau giữa các nhà sản xuất.
Thậm chí nhiều thông số không thể kiểm soát hết được theo tài liệu kỹ thuật của nhà sản xuất. Các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về lốp, kính cũng không có quy định tương tự như thế này do đó bổ sung chi tiết về sai số để thuận lợi trong đánh giá.
Mặt khác, khung xe không được có vết nứt, gãy. Mối hàn trên khung (đối với khung có kết cấu hàn) phải đều, không bị bong, nứt. Các mối ghép trên khung như mối ghép đinh tán, mối ghép bu lông, các loại mối ghép khác (nếu có) phải chắc chắn.
Ngoài ra, khung phải có khả năng chống han gỉ bằng cách sử dụng vật liệu chế tạo hoặc lớp phủ bảo vệ. Lớp phủ bảo vệ (nếu có) không được bong tróc, phồng rộp.
Quy chuẩn cũng quy định khung phải được đáp ứng yêu cầu kỹ thuật cụ thể về độ bền và các phương pháp thử nghiệm độ bền. Sau khi thử nghiệm độ bền, khung không bị biến dạng, không bị nứt, gãy; các mối hàn, mối ghép không bị hư hỏng, phá hủy.
Đáng chú ý, khung xe phải được đóng mã nhận dạng khung trên chi tiết cố định của khung hoặc trên tấm kim loại gắn cố định trên khung và phải là duy nhất. Mã nhận dạng khung có thể trùng mã nhận dạng phương tiện (VIN). Trường hợp mã nhận dạng khung không trùng với mã VIN, mã nhận dạng khung phải bao gồm các ký tự để nhận biết được nhà sản xuất khung, dây chuyền sản xuất, kiểu dáng, năm sản xuất và số thứ tự sản xuất (trừ trường hợp khung nhập khẩu để thay thế, bảo hành).
Giảm thời gian thử nghiệm, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
Tại Quy chuẩn mới, Bộ GTVT đã bỏ quy định về phương pháp thử kiểm tra vật liệu. Cục Đăng kiểm VN cho biết, do khung được sản xuất bởi nhiều loại vật liệu khác nhau, ví dụ hợp kim nhôm, sợi carbon, vật liệu tổng hợp… nên việc thử vật liệu sẽ rất phức tạp.
Do đó, chỉ cần quy định để nhà sản xuất chịu trách nhiệm về vật liệu, cơ quan quản lý chất lượng đánh giá thông số đầu ra cuối cùng là đạt yêu cầu kỹ thuật. Điều này cũng tạo sự công bằng trong quản lý giữa khung nhập khẩu và khung sản xuất lắp ráp trong nước.
Theo Cục Đăng kiểm, quy định này giúp giảm thời gian thử nghiệm, rút ngắn thời gian chờ thử của doanh nghiệp.
Mặt khác, quy chuẩn mới đã bổ sung quy định kiểm tra bề mặt khung, mối hàn, bề mặt lớp phủ bảo vệ, mã nhận dạng khung bằng phương pháp quan sát. Đối với mối ghép, ngoài quan sát còn cần kết hợp dùng tay lay, lắc để kiểm tra.
Bổ sung quy định số chu kỳ thử nghiệm khung để phù hợp với bản chất thử độ bền mỏi (hư hỏng sau bao nhiêu chu kỳ) và phù hợp với phương pháp thử của các loại linh kiện khác (như: vành bánh xe mô tô, xe gắn máy…).
Thành viên ban soạn thảo cho biết, hiện nay, vành xe mô tô, xe gắn máy là chi tiết chịu tải khắc nghiệt nhất nhưng đang thử nghiệm độ bền với 100.000 chu kỳ. Trong khi đó, khung là bộ phận đòi hỏi có độ bền cao gấp 3- 5 lần độ bền của vành, do đó, nhóm soạn thảo đã lấy hệ số an toàn là 5 lần ở mức 500.000 chu kỳ để thử nghiệm.
Quy chuẩn 30:2024/BGTVT quy định rõ: Khi đăng ký thử nghiệm chất lượng khung xe mô tô, xe gắn máy, đơn vị đăng ký phải cung cấp các tài liệu kỹ thuật và mẫu khung để thử nghiệm (gồm 1 khung thành phẩm đã có mã nhận dạng khung, 1 khung thành phẩm đã có mã nhận dạng và được lắp hệ thống treo, hệ thống chuyển động, hệ thống điều khiển và yên xe).
Cơ sở thử nghiệm khung có trách nhiệm lập báo cáo kết quả thử nghiệm đối với các nội dung thử nghiệm được quy định tại quy chuẩn.
Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 5/12/2024. Tuy nhiên, trong thời hạn 1 năm kể từ ngày thông tư có hiệu lực, các khung xe mô tô, xe gắn máy đã được thử nghiệm hoặc chứng nhận phù hợp theo quy chuẩn QCVN 30:2010/BGTVT thì không phải thử nghiệm lại. Bộ GTVT giao Cục Đăng kiểm VN chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện quy chuẩn trên.
Nguồn: https://www.baogiaothong.vn/quy-dinh-moi-ve-chat-luong-khung-mo-to-xe-gan-may-192240606192216555.htm