Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về nội dung này, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm cho biết, ngày 16/1/2024, Quốc hội đã thảo luận tại Tổ và Hội trường về “dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia” (sau đây viết tắt là dự thảo Nghị quyết), có 119 ý kiến phát biểu tại Tổ và 8 ý kiến phát biểu tại Hội trường. Đa số ý kiến đại biểu Quốc hội nhất trí với sự cần thiết, tên gọi, phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của Nghị quyết; hồ sơ đảm bảo theo quy định của pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét thông qua tại kỳ họp này.
Về phân bổ, giao dự toán chi thường xuyên ngân sách trung ương hằng năm (khoản 1), có ý kiến đề nghị tại điểm c, nêu rõ “trong trường hợp cần thiết Hội đồng Nhân dân tỉnh phân cấp cho cấp huyện…”, cần cụ thể để thực hiện. Có ý kiến cho rằng, Hội đồng nhân dân tỉnh chỉ giao tổng vốn cho cấp huyện, việc phân bổ chi tiết các dự án, tiểu dự án thành phần nên giao cho cấp huyện để chủ động, linh hoạt điều chỉnh các dự án, tiểu dự án. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, ý kiến của đại biểu là xác đáng và tiếp thu tại điểm c như sau: “Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, hoặc phân cấp cho Hội đồng nhân dân cấp huyện phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách trung ương hằng năm của từng chương trình mục tiêu quốc gia chi tiết đến dự án thành phần”.
Về điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước, điều chỉnh kế hoạch đầu tư vốn hằng năm (khoản 2), tại điểm c, có ý kiến cho rằng, cần phân cấp cho địa phương được quyền điều chỉnh dự toán, kế hoạch giữa các chương trình và giữa vốn sự nghiệp với vốn đầu tư nhưng phải có nguyên tắc để đảm bảo các mục tiêu chung của chương trình. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với quan điểm của Chính phủ, việc cho phép điều chỉnh cả 3 chương trình sẽ phá vỡ cơ cấu các chương trình, phát sinh thêm nhiều thủ tục, khó đạt mục tiêu và có thể dẫn đến phải điều chỉnh chủ trương đầu tư, trong khi thời gian thực hiện chỉ còn 2 năm, do vậy xin được giữ như nội dung dự thảo Nghị quyết.
Về ban hành quy định trình tự, thủ tục, tiêu chí, mẫu hồ sơ lựa chọn dự án phát triển sản xuất (khoản 3), có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định Ủy ban nhân dân được quyền điều chỉnh các quy định do Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành, như vậy chưa đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật. UBTVQH nhận thấy, ý kiến tham gia là phù hợp và tiếp thu, điều chỉnh theo hướng, Quốc hội cho phép Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo với Thường trực Hội đồng nhân dân cho phép điều chỉnh, báo cáo lại Hội đồng nhân dân ở kỳ họp gần nhất để tạo sự linh hoạt, kịp thời cho địa phương.
Về sử dụng ngân sách nhà nước trong trường hợp giao chủ dự án phát triển sản xuất tự thực hiện việc mua sắm hàng hóa cho hoạt động phát triển sản xuất (khoản 4), một số ý kiến băn khoăn về tính khả thi, mức độ phức tạp của việc xác định giá, quy trình, thủ tục thanh toán, nhất là việc giao cho cấp xã xác định giá hàng hóa theo thị trường; xác nhận thủ tục thanh toán đối với các trường hợp mua hàng hóa của người dân, cộng đồng. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu, chỉnh lý tại khoản 4 dự thảo Nghị quyết.
Về quản lý, sử dụng tài sản hình thành từ dự án hỗ trợ phát triển sản xuất (khoản 5), đa số ý kiến thống nhất không áp dụng quy định quản lý tài sản công đối với tài sản có vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước dưới 500 triệu, đồng thời đề nghị cần làm rõ cơ sở xác định mức dưới 500 triệu và cần phải có nguyên tắc, cơ chế quản lý đối với các tài sản có giá trị từ 500 triệu trở lên.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, cơ sở để đề xuất mức dưới 500 triệu không áp dụng quy định quản lý tài sản công đã được Chính phủ giải trình làm rõ trong Tờ trình số 13/TTr-CP ngày 12/01/2024. Việc xác định dựa trên cơ sở tham khảo mức giá trị tài sản theo quy định về xác định giá trị tài sản, vật tư, vật liệu trong quá trình tổ chức thanh lý tài sản công quy định tại Điều 31 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 và quy định về giá trị tài sản lớn của một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương.
Đối với việc quản lý, hỗ trợ đối với tài sản có giá trị từ 500 triệu, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, sửa đổi, bổ sung vào điểm b của Nghị quyết: “Đối với tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên, có vốn hỗ trợ tối đa không quá 20% giá trị tài sản và không vượt quá tổng mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước theo từng dự án cụ thể được cấp có thẩm quyền phê duyệt”.
Về cơ chế thí điểm phân cấp cho cấp huyện trong quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia (khoản 7), tiếp thu ý kiến của đại biểu, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thể hiện tại điểm a, khoản 7 dự thảo Nghị quyết, theo đó Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao nhiệm vụ cho cấp huyện được lựa chọn thí điểm. Đồng thời, giao Hội đồng nhân dân tỉnh căn cứ tình hình thực tiễn để quyết định lựa chọn không quá 2 huyện thực hiện thí điểm.
Về giao kế hoạch đầu tư công trung hạn, đầu tư vốn hằng năm đối với dự án đầu tư xây dựng có quy mô nhỏ, kỹ thuật không phức tạp (khoản 8), Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu, bổ sung vào điểm a, khoản 8 nội dung như dự thảo.
Về hiệu lực thi hành, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, Nghị quyết có hiệu lực từ ngày ban hành cho đến khi Quốc hội có quy định khác là phù hợp trong khi thực hiện thí điểm.
Sau khi nghe Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Nghị quyết này.
Kết quả biểu quyết điện tử cho thấy, có 455 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm tỷ lệ 92,29 %). Như vậy, với đa số đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.