Sáng 21-6, tiếp tục Chương trình làm việc Kỳ họp thứ 5, dưới sự chủ trì của Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Quốc hội khóa XV họp phiên toàn thể tại Hội trường thảo luận về dự án Luật Đất đai (sửa đổi).
Tham gia đóng góp ý kiến vào dự án Luật này, đại biểu Lê Hữu Trí – Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Khánh Hòa có ý kiến:
Đại biểu Lê Hữu Trí – Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Khánh Hòa |
Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) với 16 chương, 263 điều cơ bản đã cụ thể hoá được nhiều quan điểm, định hướng đã được xác định tại Nghị quyết số 18/NQ-TW của BCH TƯ Đảng. Tuy nhiên, theo đại biểu cũng còn nhiều chế định ghi trong dự thảo Luật cần rà soát, đánh giá, xem xét điều chỉnh, bổ sung để bảo đảm tính khả thi của Luật trong thực tiễn.
Về Thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, vì mục đích quốc phòng, an ninh (quy định tại Điều 78, 79).
– Điều 78 của dự thảo Luật quy định các tiêu chí để Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh được liệt kê, gồm 10 loại dự án;
– Điều 79 các tiêu chí để Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, được liệt kê, gồm: 3 nhóm lớn với 31 loại dự án: (1) xây dựng công trình công cộng. (2) Xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước, công trình sự nghiệp. (3) các trường hợp khác, bao gồm nhiều nhóm tiêu chí khác như: nhà ở, khu sản xuất, phát triển quỹ đất, khoáng sản, công trình ngầm và các trường hợp nhà nước thu hồi đất để đấu giá, đấu thầu nhằm tăng thu ngân sách…
Mặc dù dự thảo Luật đã cố gắng xác định cụ thể danh mục các dự án mà Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội, vì lợi ích quốc gia công cộng; vì mục đích quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, Tôi e rằng dự thảo Luật cũng không thể liệt kê hết các dự án để phát triển kinh tế xã hội, vì lợi ích quốc gia công cộng phát sinh trong tương lai. Vì vậy, dự thảo Luật cần thiết kế một chế định khác để xử lý trong trường hợp thực tế có phát sinh loại dự án cần thiết để phát triển kinh tế xã hội, vì lợi ích quốc gia công cộng nhưng không có trong danh mục dự án được ghi trong luật.
Mặt khác, Tại Khoản 3 Điều 54 của Hiến pháp quy định: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng”
Đây là vấn đề cần quan tâm khi mà Luật đất đai 2013 chưa được quy định rõ, dẫn đến nhiều trường hợp lạm dụng việc “Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội” để thu hồi đất của người sử dụng đất nhưng thực chất dự án không hoàn toàn để phát triển kinh tế xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng mà vì mục tiêu lợi nhuận của nhà đầu tư, doanh nghiệp từ nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước (như dự án đầu tư bất động sản, trung tâm thương mại, bệnh viện, trường học, dự án năng lượng, tôn giáo…); gây bức xúc cho người sử dụng đất, phát sinh nhiều vụ khiếu kiện kéo dài, phức tạp.
Vì vậy, Dự thảo Luật cần quy định rõ đối với các dự án Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội phải vì lợi ích quốc gia, công cộng hoặc vì mục đích quốc phòng, an ninh “nhưng phải bảo đảm tính thật cần thiết” và “không vì mục tiêu lợi nhuận”.
Ví dụ như: Các dự án “cơ sở y tế, cơ sở dịch vụ xã hội; cơ sở giáo dục, đào tạo; cơ sở thể dục thể thao; cơ sở khoa học và công nghệ…và các dự án năng lượng, dự án khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao, khu sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy, hải sản, nghĩa trang, nhà hỏa táng; cơ sở tôn giáo gắn du lịch tâm linh….( quy định tại khoản 2, điều 79) được đầu tư từ nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước: Đối với các dự án này vừa có mục tiêu là để phát triển kinh tế xã hội, vì lợi ích quốc gia công cộng nhưng cũng có mục tiêu lợi nhuận của nhà đầu tư; vậy trong trường hợp này, việc Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án có phù hợp không?
Theo đại biểu, đối với các loại dự án này, cần phân định rõ trường hợp nào thì được nhà nước thu hồi đất và trường hợp nào thì nhà đầu tư tự thỏa thuận với người sử dụng đất. Trong trường hợp nhà đầu tư tự thỏa thuận với người sử dụng đất thì cũng cần quy định tỷ lệ diện tích đất còn lại của dự án mà nhà đầu tư không thỏa thuận được với người sử dụng đất (mặc dù giá đền bù bảo đảm tính hợp lý, công bằng với mặt bằng giá đền bù đối với diện tích đất trong cùng dự án) và trong trường hợp này, Nhà nước cần tiến hành các biện pháp thu hồi diện tích đất còn lại mà nhà đầu tư không thỏa thuận được nhằm bảo đảm các dự án không bị tắc nghẽn. Đồng thời, cần có chế định điều chỉnh chênh lệch địa tô cho người sử dụng đất để bảo đảm công bằng về mặt lợi ích của nhà nước, nhà đầu tư và người bị thu hồi đất.
Mặt khác, đại biểu Lê Hữu Trí đề nghị cần quy định cụ thể, rõ ràng hơn về thẩm quyền, mục đích, phạm vi thu hồi đất, điều kiện, tiêu chí cụ thể việc Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng và cũng như cơ chế tự thỏa thuận giữa doanh nghiệp và người sử dụng đất trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án xây dựng các khu đô thị, nhà ở thương mại theo đúng tinh thần Nghị quyết 18/NQ-TW. Quy định như trong dự thảo Luật đối với việc Nhà nước thu hồi đất hoặc chủ đầu tư thỏa thuận với Người sử dụng đất để thực hiện các dự án nhà ở thương mại, dự án xây dựng các khu đô thị sẽ gây ra nhiều cách hiểu khác nhau khi thực hiện trong thực tiễn.
Đại biểu cũng đề nghị cần bổ sung thiết chế “đất sử dụng cho Khu kinh tế” vào dự thảo Luật. Việc bỏ thiết chế “đất sử dụng cho Khu kinh tế” sẽ gây khó khăn cho quá trình thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất cho các dự án đầu tư vào Khu kinh tế; cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng trong khu kinh tế và sẽ không thu hút được các dự án đầu tư phát triển các Khu kinh tế.
Trí Nghĩa