(NLĐO)- Trong mùa giải XXIV, 6 luận án tiến sĩ sử học đã được trao Giải thưởng sử học Phạm Thận Duật tại lễ tưởng niệm 139 năm ngày mất của danh nhân.
Lễ dâng hương tưởng niệm danh nhân Phạm Thận Duật nhân dịp kỷ niệm 139 năm ngày mất (29-11-1885) và trao giải cho những luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử xuất sắc nhất trên cả nước đã được tổ chức sáng 29-11 tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám (TP Hà Nội).
Tại buổi lễ do Quỹ Giải thưởng Phạm Thận Duật kết hợp cùng Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức, ban tổ chức đã trao Giải thưởng sử học Phạm Thận Duật cho 6 luận án tiến sĩ sử học xuất sắc nhất mùa giải thứ XXIV.
Trong đó, luận án “Bưu chính ở Bắc Kỳ từ năm 1897 đến năm 1929” của TS Trương Thị Hải, Viện Sử học Việt Nam, đã vinh dự nhận giải Nhất.
Hai giải Nhì được dành cho Luận án “Binh chế triều Minh Mệnh” của TS Hoàng Lương, Viện Lịch sử quân sự và “Truyền đơn cách mạng ở Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945” của TS Trương Thị Phương, Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
Có 3 giải Ba thuộc về các luận án: “Đảng lãnh đạo xậy dựng lực lượng dân quân tự vệ từ năm 2001 đến năm 2015” của TS Phạm Thanh Tùng (Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng); “Quá trình phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020” của TS Bùi Thị Bích Thuận (Trường Đại học Công đoàn) và “Di tích đền miếu liên quan đến vương triều Trần ở Đông Triều (Quảng Ninh)” của TS Kiều Đình Sơn (Trường Đại học Hạ Long).
Danh nhân Phạm Thận Duật (1825-1885) là nhà sử học, nhà văn hóa đa diện, nghĩa sĩ yêu nước, người góp phần khởi động phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp xâm lược vào cuối thế kỷ XIX.
Phạm Thận Duật là người thôn Yên Mô Thượng, xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Năm 1850, sau khi thi đỗ cử nhân, ông ra làm quan với chức Giáo thụ phủ Đoan Hùng rồi làm Trì châu Tuần Giáo. Dưới triều đại vua Tự Đức, Phạm Thận Duật đã lần lượt kinh qua nhiệm vụ trong các lĩnh vực đa dạng, từ chính trị, kinh tế, thủy lợi đến ngoại giao hay quốc phòng.
Năm 1885, Pháp đánh chiếm kinh thành Huế. Là một nhân vật chủ chiến, ông cùng Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị. Nhận lệnh của vua Hàm Nghi, ông thảo chiếu Cần Vương kêu gọi các sĩ phu và nhân dân đứng lên chống Pháp. Lĩnh chức Khâm sai đại thần ra Bắc để chiêu tập nghĩa sĩ Cần vương, ông bị Pháp bắt đưa đi tù ở Côn Đảo. Ngày 29-11-1885 trên đường từ Côn Đảo đến đảo Tahiti, ông đã hy sinh trên đường đi đày, nấm mồ của ông là biển cả.
Trong 35 năm làm quan, vừa đảm trách công việc triều đình giao phó, ông cũng vừa sáng tác và hoàn thành nhiều tác phẩm thuộc các thể loại thơ văn, nhật ký, tấu tập và địa chí có nhiều giá trị như Hưng Hóa ký lược, Quan Thành văn tập, Vãng sử Thiên Tân nhật ký, Quan Thành tấu tập, Hà đề tấu tập, Hà đề bộ văn tập, Hà đề tầu tư tập, Điều trần đề chính trị nghị tập.
Là nhà sử học tài năng, ông từng giữ chức Phó tổng tài Quốc sử quán Triều Nguyễn, được đích thân Vua Tự Đức giao trọng trách tổng duyệt bộ quốc sử Khâm định Việt Sử thông giám cương mục, bộ sử chính thức của triều đại nhà Nguyễn, và phụ trách chỉnh sửa phần Dực Tông Anh hoàng đế thực lục chính biên trong bộ Đại Nam thực lục đệ tử ký.
Từ năm 2000, với sự tài trợ của Quỹ Giải thưởng Phạm Thận Duật, giải thưởng sử học mang tên danh nhân đã trở thành Giải thưởng đầu tiên được trao trong lĩnh vực sử học ở Việt Nam. Đây cũng là giải thưởng chính thức và duy nhất của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, có phạm vi toàn quốc. Trong 23 mùa giải qua, 125 Tiến sĩ sử học xuất sắc trong cả nước đã được nhận giải thưởng sử học này.