Duy trì xu hướng tích cực, nhưng đà phục hồi của ngành sản xuất đồng thời chịu áp lực không nhỏ từ chi phí đầu vào leo thang.
Cuối tháng trước, Hiệp hội Điều Việt Nam (Vinacas) cho hay các hội viên chỉ nhận được 50% sản lượng điều thô theo hợp đồng thu mua từ các đối tác châu Phi – chủ yếu là Tây Phi khi giá tăng vọt.
Nguyên nhân bởi khu vực này đang mất mùa và một số nước áp dụng chính sách tạm ngưng xuất khẩu điều thô để hỗ trợ các nhà máy nội địa. Điều này khiến giá điều Tây Phi tăng hàng ngày. Vào tháng 2, giá khoảng 1.000-1.050 USD mỗi tấn, nhưng giờ lên đến 1.500-1.550 USD, tương đương gần 40%.
Nhưng sự cố ngành điều không cá biệt. Nguyên liệu đầu vào của một số ngành sản xuất đi lên từ đầu năm đến nay, gây áp lực lên quá trình phục hồi của ngành công nghiệp chế biến – chế tạo. Theo nền tảng dữ liệu Trading Economics (Mỹ), một số hàng hóa đã tăng giá hai con số so với cùng kỳ năm ngoái, từ bạc, đồng, cao su, dầu cọ, sữa, phô mai, bơ, trà, cà phê.
Công ty thực phẩm Orion Vina xác nhận giá nhiều loại nguyên liệu như ca cao, đường, sữa, bột mì tiếp tục leo thang trong nửa đầu năm. Đơn cử, ca cao tính tới thời điểm hiện tại tăng 300% so với cùng kỳ.
“Mức này đang làm gia tăng áp lực chi phí với công ty trong bối cảnh sức mua còn yếu”, đại diện Orion Vina nói. Theo tiết lộ, chi phí đầu vào của công ty này đã tăng 2 con số trong nửa đầu năm nay.
Ông Nguyễn Ngọc Luận, nhà sáng lập thương hiệu cà phê nông sản Meet More (huyện Hóc Môn, TP HCM) cho biết rơi vào thế khó khi giá cà phê tăng gấp đôi cùng kỳ. Các hợp đồng ký trước với đối tác ở mức thấp, nhưng giá thành giờ tăng cao.
Theo ông Luận, chưa bao giờ khó “trở tay” như năm nay. “Hàng năm, cà phê không biến động “sốc’ nên việc thu mua nguyên liệu dễ dàng. Giờ các doanh nghiệp không thể mua dự trữ do giá leo thang”, ông nói.
Khảo sát Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) của S&P Global cũng cho thấy đơn hàng mới và mua sắm đầu vào của doanh nghiệp Việt đã tăng tháng thứ hai liên tiếp, tính đến tháng 5. Nhưng họ đối mặt với đầu vào tăng mạnh.
Cụ thể, tốc độ tăng đầu vào đã đạt mức nhanh nhất kể từ tháng 6/2022. Một số doanh nghiệp tham gia khảo sát của S&P Global chỉ ra nguyên nhân bởi VND giảm giá so với USD, cùng với chi phí và nhiên liệu cao hơn. Khoảng 25% cho hay chi phí đầu vào tăng, so với 5% nói giảm.
Gồng lỗ, tiết kiệm hay tăng giá là những cách ứng phó của doanh nghiệp sản xuất lúc này.
Tại nhà máy của Meet More, công suất đang giảm 30-40%. Các hợp đồng xuất khẩu cũng ngưng vì giá cao khiến đối tác chuyển hướng sang nhập hàng từ Ấn Độ và Indonesia. Với hàng bán tại siêu thị, ông Luận “gồng lỗ” giữ giá. “Nếu tăng đúng như giá nguyên liệu đầu vào thì người tiêu dùng sẽ quay lưng”, ông nói.
Orion Vina chọn cách “thắt lưng buộc bụng”, thực hiện các dự án xanh, bao bì thân thiện để giảm chi phí đầu vào. Năm nay, họ còn định giảm tiền quảng cáo, đầu tư mạng lưới phân phối và phát triển vùng nguyên liệu tại địa phương để tạo ra doanh thu tốt hơn, tránh nguy cơ thua lỗ.
Giải pháp khác là giảm lao động. Tại TP HCM, chỉ số lao động lĩnh vực công nghiệp 5 tháng sụt 5,7% so với cùng kỳ 2023. Các ngành như sản xuất phương tiện vận tải, kim loại, đồ da có chỉ số đi lùi hai chữ số, theo Cục Thống kê.
S&P Global ghi nhận việc làm lĩnh vực sản xuất của Việt Nam giảm tháng thứ 2 liên tiếp, tính đến tháng 5, dù sản lượng vẫn được duy trì hoặc tăng. Đó là chưa kể một số doanh nghiệp chọn cách tăng giá sản phẩm để bù đắp chi phí đầu vào. Tháng qua là lần đầu tiên các nhà sản xuất Việt Nam tăng giá bán kể từ tháng 2.
Theo Andrew Harker, Giám đốc Kinh tế tại S&P Global Market Intelligence, dữ liệu PMI ngành sản xuất Việt Nam phản ánh những tín hiệu trái chiều. Về mặt tích cực, các đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng mạnh, cho thấy nhu cầu cải thiện. Tuy nhiên, nhân lực và áp lực lạm phát đầu vào là điều lo ngại.
“Số lượng lao động tiếp tục giảm với tốc độ đáng kể, có thể hạn chế năng lực sản xuất của các công ty. Đồng thời, lạm phát đầu vào tăng nhanh nhất trong gần hai năm, dẫn đến giá thành sản phẩm tăng cao, có thể làm hạ nhu cầu trong những tháng tới”, ông cảnh báo.
Giá các nguyên – nhiên liệu đầu vào có thể diễn biến khó lường trong thời gian còn lại của năm, theo các tổ chức quốc tế. Tháng trước, World Bank cho rằng giá kim loại vẫn tương đối ổn định năm nay nhờ nguồn cung dồi dào và nhu cầu chậm ở các nền kinh tế lớn.
Tuy nhiên, hàng hóa cơ bản khác vẫn chịu áp lực từ căng thẳng địa chính trị. Nếu xung đột leo thang ở Trung Đông, hầu hết đều gặp rủi ro, gồm năng lượng, vốn là yếu tố then chốt cho việc sản xuất và vận chuyển.
Những yếu tố khác góp phần gây rủi ro tăng giá, chẳng hạn nguồn cung năng lượng của Mỹ giảm sút và gián đoạn do điều kiện thời tiết và khí hậu bất lợi ảnh hưởng đến hàng hóa nông nghiệp.
Ngoài ra, áp lực chi phí nhập khẩu nguyên liệu do USD mạnh lên sẽ còn tiếp tục cho đến khi Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) phát tín hiệu rõ ràng về thời điểm hạ lãi suất. Yun Liu, chuyên gia kinh tế phụ trách thị trường ASEAN, Khối Nghiên cứu kinh tế toàn cầu HSBC cho biết ngoài VND, nhiều đồng tiền Đông Nam Á khác cũng chịu áp lực giảm giá trước USD.
“Mọi người vẫn đang chờ đợi quyết định cuối cùng của Fed”, bà Yun Liu nói. Chuyên gia HSBC dự báo Fed sẽ cắt giảm lãi suất một lần trong năm nay và có thể 3 lần vào năm sau. Nhưng có thể phải chờ đến quý cuối quý III hoặc quý IV để thấy động thái. Tổ chức nghiên cứu Economist Intelligence cho rằng Fed sẽ trì hoãn đợt cắt giảm lãi suất đầu tiên cho đến tháng 9.