Nhấn mạnh chưa bao giờ công tác điều hành chính sách tiền tệ khó khăn như bây giờ, Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú ví von, hiện toàn hệ thống đang phải “chữa bệnh thừa tiền”.
Ngày 7/9, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái chủ trì cuộc họp về giải pháp nâng cao hiệu quả tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp, tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế.
Phát biểu khai mạc cuộc họp, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái nhấn mạnh, trong công tác chỉ đạo điều hành kinh tế nói chung, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn rất quan tâm, trăn trở, cầu thị, lắng nghe ý kiến từ các nhà quản lý, chuyên gia, doanh nghiệp. Qua đó có nhiều giải pháp chỉ đạo sâu sát, kịp thời nhằm bảo đảm kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn…để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, phát triển kinh tế.
Đối với công tác điều hành chính sách tiền tệ, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng đã có nhiều chỉ đạo liên quan đến tín dụng, lãi suất… Qua đó, trong bối cảnh bên ngoài rất khó khăn nhưng tình hình phát triển kinh tế đất nước thời gian qua đã tốt dần lên, tuy nhiên vẫn chưa được như mong muốn, kỳ vọng.
Chính vì vậy, cần phải tiếp tục phân tích thấu đáo tình hình để tiếp tục tìm ra các giải pháp tổng thể, phù hợp, hiệu quả hơn nữa.
Ngân hàng cũng đang tồn kho tiền
Tại cuộc họp, Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú cho rằng: Chưa bao giờ công tác điều hành chính sách tiền tệ khó khăn như bây giờ. Ông ví von, hiện nay toàn hệ thống ngân hàng đang phải “chữa bệnh thừa tiền”. Cũng giống như các doanh nghiệp bị tồn kho hàng hóa, các ngân hàng thương mại cũng đang tồn kho tiền.
Ngân hàng Nhà nước cùng với toàn hệ thống tín dụng liên tục tổ chức các hội nghị, cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn, triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất, giảm lãi suất cho vay… Tuy nhiên, theo ông Tú, việc cung cấp tín dụng cho nền kinh tế vẫn khó khăn, bởi doanh nghiệp không hấp thụ được vốn, “không muốn vay”.
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đến ngày 29/8, tín dụng nền kinh tế đạt khoảng 12,56 triệu tỷ đồng, tăng 5,33% so với cuối năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 tăng 9,87%).
Trong bối cảnh thanh khoản hệ thống tổ chức tín dụng dư thừa và còn rất nhiều dư địa để tăng trưởng tín dụng (toàn hệ thống còn khoảng 9% để tăng trưởng tín dụng, tương đương khoảng 1 triệu tỷ đồng), lãi suất cho vay có xu hướng giảm, từ đó tổ chức tín dụng có điều kiện thuận lợi để cung ứng vốn tín dụng đối với nền kinh tế.
Do đó, Ngân hàng Nhà nước khẳng định tăng trưởng tín dụng thời gian qua chưa cao không phải xuất phát từ nguyên nhân thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Để nâng cao hiệu quả tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp, tăng khả năng tiếp cận vốn của nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước đề xuất 4 nhóm giải pháp: Kích cầu đầu tư, tiêu dùng, thúc đẩy các động lực tăng trưởng kinh tế; phát triển các loại thị trường (trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản); nâng cao năng lực, khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp; và giải pháp thứ tư về tiền tệ, tín dụng, lãi suất.
“Không được đánh đồng”
Tại hội nghị, TS. Võ Trí Thành cho rằng, để giải quyết bài toán nâng cao hiệu quả tiếp cận tín dụng của người dân, doanh nghiệp, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, cần phải có cách nhìn và giải pháp tổng thể cả trong hệ thống kinh tế cũng như trong hệ thống ngân hàng.
Để có lời giải cho bài toán này, chỉ riêng hệ thống ngân hàng khó giải quyết được vấn đề. Trước tiên, về tư duy, “không được đánh đồng” giữa vai trò của Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại.
Từ tổng thể chung của nền kinh tế, cần có sự kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa các chính sách tài chính với chính sách tiền tệ, nhất là trong bối cảnh hiện nay, dư địa để điều hành chính sách tiền tệ không còn nhiều (chủ yếu liên quan đến lãi suất), cần nghiên cứu có giải pháp phù hợp, hiệu quả đẩy mạnh chính sách tài khóa.
Về tín dụng, cần phân biệt rành mạch khả năng về chính sách của Ngân hàng Nhà nước và hoạt động của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ khôn khéo, gắn với bảo đảm an toàn hệ thống tín dụng. Các ngân hàng thương mại cần hoạt động tuân theo pháp luật và quy luật của thị trường.
Cạnh đó, cần tính toán, đánh giá kỹ lưỡng để hướng dòng vốn vào những khu vực có khả năng phục hồi và phát triển, dẫn dắt nền kinh tế, đi đôi với các giải pháp kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy xuất khẩu, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công…
Ngành nào có thể “kéo 100 triệu dân đi lên”
Trong khi đó, PGS.TS Trần Đình Thiên nhấn mạnh, chưa bao giờ Chính phủ, các cấp, các ngành điều hành quyết liệt như thời gian vừa qua, nhưng kết quả chưa như mong đợi. Rõ ràng là nền kinh tế đang ở trong trạng thái không bình thường.
Trong bối cảnh đó, cần phải phân tích kỹ các nguyên nhân từ bên trong bộ máy hành chính cũng như cấu trúc của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam để nhận diện đúng và có biện pháp xoay chuyển.
Theo ông, vấn đề khó nhất đối với doanh nghiệp hiện nay là vấn đề thị trường. Cho nên phải mở được các thị trường cho doanh nghiệp, “thị trường tắc thì không lĩnh vực nào thông được”.
Đối với việc điều hành tín dụng trong trạng thái bất thường, phải có những giải pháp khác thường. Đây cũng là cơ hội để các ngân hàng can đảm lên, tiếp cận doanh nghiệp bằng xu hướng, tiềm năng tương lai…
Ông Thiên ví dụ hỗ trợ tín dụng doanh nghiệp phát triển kinh tế số, chuyển đổi xanh, năng lượng tái tạo. “Điều hành tín dụng nên có cách nhìn dài hạn, hướng về tương lai”, ông Thiên nói.
Vị chuyên gia này cũng cho rằng, trong giai đoạn hiện nay nên tính toán tiếp tục đẩy mạnh các chính sách tài khóa ngân sách để hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ nền kinh tế đảm bảo “đủ mức, đủ độ”… “Đây là câu chuyện rất khó về cơ chế. Nhưng khó mới cần phải làm”, ông bày tỏ.
TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, trong bối cảnh rất khó khăn, chúng ta vẫn có lợi thế là nền tảng kinh tế vĩ mô khá ổn định. Đây là vấn đề rất quý và “chúng ta cũng phải vui một tý”.
Theo ông Nghĩa, bên cạnh việc giải quyết những vấn đề trước mắt, lúc này cũng phải “bàn chuyện dài hạn”, tính toán xem ngành nào, lĩnh vực nào có thể “kéo 100 triệu dân đi lên” trong thời gian tới để có các giải pháp phù hợp, hiệu quả.