Trong lịch sử quân sự thế giới, các chiến hào xuất hiện từ lâu, nhưng thường được sử dụng làm nơi ẩn nấp và phòng thủ.
Chiến hào chưa bao giờ được xem là phương thức tiến công. Cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ, hình thức tác chiến “đào hào, vây lấn” của quân đội nhân dân Việt Nam đã khiến thực dân Pháp bất ngờ, khiến giới quân sự thế giới sửng sốt, trở thành một hình thái chiến tranh sáng tạo, độc đáo, góp phần quyết định chiến thắng lịch sử của dân tộc ta.
Khoét sâu nhược điểm của địch, phát huy cao nhất khả năng của ta
Khi tập đoàn cứ điểm mà quân đội Pháp xây dựng tại Điện Biên Phủ dần hoàn thiện, rất nhiều nhân vật cấp cao của cả Pháp và Mỹ tới thăm đều nhất trí đánh giá, đây là một “pháo đài không thể công phá”. Pháp đã xây dựng những công sự, hầm chỉ huy hết sức kiên cố, bảo đảm chịu được cả đạn cối 120mm. Mỗi cứ điểm đều có những tuyến chiến hào lượn quanh và giao thông hào nối liền các cứ điểm với nhau, cùng nhiều lớp rào dây thép gai từ 50 đến 75 mét vây bọc. Ngoài ra còn có các bãi mìn dày đặc và lực lượng cơ động với hệ thống hỏa lực rất mạnh. Mọi cuộc tiến công của bộ đội ta trên cánh đồng đều phải vượt qua hỏa lực máy bay, đại bác, xe tăng và sự phản kích của quân cơ động, kể cả quân dù, trước khi đối đầu với hỏa lực bắn thẳng, hàng rào dây thép gai và bãi mìn của bản thân cứ điểm.
Về chiến thuật này, Clausewitz, nhà lý luận quân sự kinh điển, đã viết: “Phải thừa nhận là một số lớn những đồn (nhỏ) như vậy được xây dựng sát bên nhau, tạo thành một mặt trận có sức mạnh to lớn, hầu như không thể công phá được”. (1)
Trước những thay đổi tăng cường phòng ngự của địch, đồng thời thấy rõ những bất lợi của ta nếu triển khai phương thức tác chiến “đánh nhanh, thắng nhanh”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh chiến dịch, vô cùng trăn trở. Phải tìm ra cách đánh thích hợp với trình độ của bộ đội, khoét sâu vào những nhược điểm cơ bản của địch, hạn chế tới mức thấp nhất sức mạnh phi pháo và phát huy tới mức cao nhất khả năng tác chiến của bộ đội và tính năng các loại vũ khí của ta. Cuối cùng, Đại tướng quyết định lùi ngày mở màn và thay đổi phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”. Thay vì một cuộc tiến công vào toàn bộ tập đoàn cứ điểm, ta sẽ xây dựng trận địa bao vây, chia cắt quân địch, đưa pháo vào những vị trí an toàn, đặt cứ điểm trong tầm bắn, khống chế sân bay, tiếp đến tiến hành một loạt trận công kiên, tiêu diệt từng trung tâm đề kháng, tiến tới bóp nghẹt “con nhím Điện Biên Phủ”.
Kế hoạch tiến công được lùi lại hơn 1 tháng so với ban đầu. Trong thời gian đó, ta củng cố hậu phương, hậu cần, đặc biệt tập trung xây dựng trận địa tiến công, đào hào vây lấn, siết chặt vòng vây quanh Điện Biên Phủ. Bên cạnh tập đoàn cứ điểm cũ của địch, đã có một “tập đoàn cứ điểm thứ 2, một tập đoàn cứ điểm di động” hình thành. Vòng dây khổng lồ sinh sôi nhanh chóng này chính là cái “thòng lọng” sẽ quyết định số phận của “con nhím thép” Điện Biên Phủ.
Siết chặt vòng vây
Sân bay chính Mường Thanh được ví như “yết hầu”, cổ họng lớn của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Trung bình mỗi ngày có gần 100 lần chiếc máy bay vận tải từ sân bay Cát Bi (Hải Phòng), Gia Lâm (Hà Nội), tiếp tế khoảng 200 – 300 tấn hàng và thả dù khoảng 100 – 150 tấn cho quân Pháp ở Điện Biên Phủ qua sân bay Mường Thanh. Nếu kìm chế được cầu hàng không này, ta sẽ ép quân Pháp vào tình thế khó khăn.
Ngay từ ngày 23/3/1954, nghĩa là chỉ 10 ngày sau khi mở màn chiến dịch, sân bay Mường Thanh đã nằm trong tầm ngắm chuẩn xác của pháo binh ta từ các trận địa, chiến hào mà ta vây lấn, chia cắt. Đến ngày 30/3, các máy bay đã không thể tiếp cận sân bay và chỉ có thể tiếp tế bằng cách thả dù. Chiều 22/4/1954, quân ta đã hoàn toàn làm chủ sân bay Mường Thanh. Tướng Nava – Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương phải thừa nhận trong tuyệt vọng: “Đối phương tìm cách xâm nhập ngày càng sát vào tập đoàn cứ điểm. Chiến hào của họ xuất hiện khắp xung quanh, nhất là mặt phía đông. Cả phản pháo lẫn ném bom của ta đều không bịt miệng được pháo phòng không và pháo mặt đất của Việt Minh.” (2)
Thực tế chiến trường cho thấy, chiến cuộc càng ác liệt, các chiến hào càng phát huy giá trị. Chiến hào của quân ta không chỉ là chiến tuyến phòng thủ, cung cấp nơi ẩn náu an toàn cho bộ đội, nó bao vây, chia cắt, làm hạn chế viện binh của địch, ngăn cản sự tiếp tế của chúng, đồng thời giúp ta phát huy được tất cả các cỡ hỏa lực để uy hiếp khu vực trung tâm, tạo điều kiện cho quân đội tiếp cận và tấn công địch.
Trận địa hào xây dựng chủ yếu vào ban đêm và triển khai cùng một lúc trên toàn mặt trận. Đây thực sự là một cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh. Bộ đội ta phải lao động cật lực, với những công cụ đào thủ công trong điều kiện khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, ngay dưới làn đạn pháo dày đặc của quân Pháp.
Khi đường hào đã kéo dài hàng chục kilômét trên cánh đồng thì bộ đội ta không còn cách nào ngụy trang để che mắt quân địch, mỗi tấc đất chiến hào bắt đầu phải trả bằng máu. Pháo địch bắn suốt đêm vào những đường hào của ta mà chúng đã phát hiện ban ngày. Máy bay liên tiếp thả đèn dù phát hiện những mục tiêu mới cho những trận oanh tạc. Địch đưa quân ra những trận địa ở gần, đánh bật bộ phận canh gác của ta, san lấp những đoạn hào, gài mìn ngăn bộ đội ta đào tiếp. Quá trình xây dựng trận địa tiến công, đào hào vây lấn, siết chặt vòng vây trở thành một cuộc chiến đấu gay go giữa ta và địch.
Thế nhưng các chiến hào vẫn như những mũi khoan, từ nhiều hướng lao nhanh về phía các cứ điểm của địch ở khu vực trung tâm, ngày càng siết chặt, với một sức mạnh không gì ngăn cản được. Mọi thủ đoạn phá hoại của địch đều bị thất bại.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội ta đã đào hai loại chiến hào: một là loại giao thông hào trục, dùng cho việc cơ động bộ binh, cơ động pháo binh, vận chuyển thương binh, hình thành một đường vòng rộng, vây quanh trận địa ở phân khu trung tâm của địch; hai là loại giao thông hào tiếp cận của bộ binh, xuất phát từ vị trí trú quân của các đơn vị trong rừng đổ ra cánh đồng, cắt ngang giao thông hào trục, tiến vào những vị trí địch mà ta định tiêu diệt, dọc giao thông hào bộ binh, có đầy đủ hố phòng pháo sát thương, hầm trú ẩn, hào chiến đấu và ụ súng, cũng là nơi bộ đội ta hội họp, vui chơi giải trí. Các giao thông hào có độ sâu 1,7m (lút đầu người), đáy hào trục rộng 1,2m, đáy hào bộ binh rộng 0,6 mét. Về chiều dài, lúc đầu được ước tính trên bản đồ khoảng 100km, nhưng trong suốt quá trình chiến dịch, bộ đội ta đã phải đào lên gấp đôi, đến hơn 200km, hoàn toàn bằng sức người. Lưỡi xẻng ngày đầu mới được phát sáng loáng, tròn trĩnh, đến ngày đào xong chiến hào tiếp cận địch, lưỡi xẻng mòn hết, chỉ còn trơ lại một mảnh sắt nhỏ, cong như một vầng trăng khuyết.
Trong khi quân Pháp phải sinh hoạt trong những điều kiện thiếu thốn khủng khiếp, quân ta lại có điều kiện sinh hoạt khá phong phú. Nhờ trận địa chia cắt, ta còn thu được nhiều hàng tiếp tế của quân Pháp, trong đó có những mặt hàng rất cần thiết cho ta như đạn 105mm, đạn súng cối, huyết thanh khô, lương thực thực phẩm… Không chỉ khiến cho quân đội Pháp rơi vào tình thế tuyệt vọng, cuối cùng hoàn toàn thảm bại vào ngày 7/5/1954 , chiến thuật “Vây, lấn, tấn, diệt” trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã góp phần nâng tầm nghệ thuật quân sự Việt Nam lên một mốc thang mới, đồng thời đóng góp một hình thái chiến đấu sáng tạo, độc đáo vào nghệ thuật quân sự thế giới.
—————————————————–
(1) “Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Tổng tập Hồi ký” Sđd trg. 948
(2) “Thời điểm của những sự thật – Henri Navarre”, NXB Công an Nhân dân, 2024.