Doanh nghiệp chế biến điều Việt Nam chỉ nhận được 50% sản lượng điều thô theo hợp đồng thu mua từ các đối tác châu Phi khi giá tăng vọt, nguyên nhân vì sao?
Theo Hiệp hội Điều Việt Nam (Vinacas), nhà xuất khẩu hạt điều thô tại châu Phi không giao hàng theo hợp đồng hoặc tìm cách tăng giá bán 40-50%, đẩy nhiều doanh nghiệp nhập khẩu điều thô trong nước gặp khó, nguy cơ thua lỗ nặng.
Phân tích với VTC News về thị trường điều trong nước, ông Bạch Khánh Nhựt, Phó Chủ tịch Vinacas cho biết, nguồn cung cung điều trong nước chỉ đảm bảo 10 – 12% so với tổng sản lượng sản xuất, chế biến điều của doanh nghiệp.
Vì vậy, các nhà máy chế biến điều ở Việt Nam cần nguồn cung nhập khẩu. Mỗi năm, các doanh nghiệp nhập khẩu hơn 2,5 triệu tấn điều thô, trong đó khoảng 1,7 triệu tấn từ châu Phi, chủ yếu là Tây Phi.
Ông Nhựt cho biết, hàng năm các doanh nghiệp ký kết hợp đồng nhập khẩu với các doanh nghiệp đối tác của nước Bờ Biển Ngà.
Tuy nhiên, năm 2024, Chính phủ nước này đã ban hành chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp trong nước thu mua nguồn nguyên liệu trước để bình ổn thị trường, sau đó sản lượng điều thô còn lại mới mở cửa xuất khẩu tự do. Điều này đã làm giảm một nguồn cung cấp nguyên liệu cho Việt Nam.
“Năm nay, tại các nước châu Phi, trong đó có Bờ Biển Ngà đã xảy tình trạng Elnino cực kỳ tai hại, ảnh hưởng lớn đến sản lượng của cây điều, dẫn đến sản lượng thấp, hàng hóa khan hiếm và giá điều thô tăng cao”, ông Nhựt nói.
Tuy nhiên, điều đáng nói là nhiều hợp đồng trước đây ký kết với các doanh nghiệp Việt Nam ở mức giá thấp. Trong khi hiện nay nhiều doanh nghiệp xuất khẩu tại Tây Phi đã đẩy giá điều thô tăng hơn 40 – 50% so với tháng 2 và 3, lên 1.500 – 1.700 USD/tấn.
“Nếu họ đóng gói giao hàng cho doanh nghiệp Việt Nam tại thời điểm này theo hợp đồng đã ký kết thì mỗi tấn điều thô họ lỗ 200 – 500 USD, trong khi điều không chỉ bán theo tấn, mà bán theo hàng chục nghìn tấn.
Như vậy, với con số này, họ cho rằng sẽ bị thất thu lợi nhuận rất lớn nên nhiều doanh nghiệp đối tác đã không cần giữ thương hiệu, uy tín mà chỉ cần giữ lợi nhuận và họ đã “xù hàng” của doanh nghiệp Việt ”, ông Nhựt nói.
Cũng theo ông Nhựt, các doanh nghiệp này đã đưa ra nhiều điều kiện để giao hàng theo hợp đồng đã ký kết.
Trong đó, yêu cầu doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam phải trợ giá bằng việc chia đôi phần giá tăng, tức là doanh nghiệp Việt phải chi trả thêm từ 200 – 300 USD/tấn.
Hoặc là họ sẽ đóng hàng kém chất lượng để cấn trừ chất lượng, nhằm không bị thiệt thòi về giá chênh lệch. “Chẳng hạn, chúng ta ký hợp đồng loại hàng 50 lbs (điểm chất lượng hạt điều) thì họ chỉ giao hàng 44 – 45 lbs“, ông Nhựt giải thích.
Bên cạnh đó, một tình trạng “lật kèo” khác cũng đang diễn ra là những đơn hàng đang hành trình trên biển để giao đến cho các doanh nghiệp Việt Nam bị đổi chứng từ ngay trên tàu. Thay vì giao đến cho doanh nghiệp Việt Nam thì họ lại bán cho đối tác khác, nên doanh nghiệp Việt không nhận được hàng theo hợp đồng.
“Theo báo cáo của các thành viên Vinacas, đến thời điểm sáng 1/6 có đến hơn 50% số lượng và giá trị hợp đồng nhập khẩu điều đã ký của các doanh nghiệp Việt đều rơi vào các tình trạng này, từ đó sinh ra chuỗi khủng hoảng dây chuyền về sản xuất, chế biến, xuất khẩu điều trong nước”, ông Nhựt nói.
Doanh nghiệp Việt không kịp xoay xở
Ông Nhựt cho rằng, các doang nghiệp Việt Nam đang bị động và không thể xoay xở kịp khi các đối tác cố ý lật kèo theo chủ ý.
Doanh nghiệp Việt cũng không thể mua hạt điều thô của các nước đối tác nào khác tại thời điểm này vì hiện tại hạt điều của Việt Nam đã thu hoạch xong, trong khi hạt điều của Campuchia cũng đã thu hoạch và doanh nghiệp Việt Nam đã thu mua hết.
“Bây giờ chúng ta dựa vào nguồn hàng chủ yếu từ châu Phi, trong đó có Bờ Biển Ngà, còn các nước khác chưa vào vụ. Như vậy các doanh nghiệp Việt rất bị động và lo lắng không biết đến khi nào chuỗi cung ứng này sẽ bình thường trở lại”, ông Nhựt bày tỏ.
Trước thực tế này, ông Nhựt cho biết, Vinacas đã gửi văn bản đề nghị Hiệp hội các nhà xuất khẩu điều Bờ Biển Ngà nhắc nhở hội viên thực hiện đúng hợp đồng đã ký.
Đồng thời sẽ gửi văn bản kiến nghị lên Chính phủ, các bộ ngành liên quan để tháo gỡ khó khăn cho ngành điều, trong đó có tác động tới các nước châu Phi gỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu điều thô.
Hiệp hội cũng kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phát triển vùng nguyên liệu, chất lượng giống. Điều này sẽ giúp các nhà chế biến điều bớt phụ thuộc nguồn nhập khẩu.
Trung bình mỗi năm, Việt Nam nhập khẩu khoảng 2,5 triệu tấn hạt điều, trong đó khoảng 800.000 tấn từ Bờ Biển Ngà, 700.000 tấn từ Campuchia. Số lượng còn lại là nhập khẩu từ Tanzania, Đông Phi và các nước khác.