Sở hữu 250km bờ biển với trên 6.000km2 mặt nước, Quảng Ninh có lợi thế vượt trội trong phát triển kinh tế biển. Những năm qua tỉnh đã triển khai đồng bộ các giải pháp. Các cảng của Quảng Ninh đã trở thành địa chỉ quen thuộc để các chủ tàu, chủ hàng lựa chọn đưa tàu có trọng tải lớn đến, góp phần quan trọng vào tăng trưởng của tỉnh.
Ưu tiên nguồn lực cho phát triển cảng biển
Quảng Ninh hiện có 8 khu bến cảng và 2 khu neo đậu, chuyển tải, đi kèm với sự đồng bộ về cơ sở hạ tầng, dịch vụ sau cảng, được Chính phủ xác định là một trong 5 khu vực cảng biển lớn của cả nước, đảm nhận trên 50% tổng lượng hàng hóa, hành khách khu vực phía Bắc, có vai trò phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của cả nước, liên vùng, cửa ngõ hoặc cảng trung chuyển quốc tế…
Nổi bật, khu bến cảng Hòn Gai – Cái Lân nằm trong vùng vịnh kín, luồng vào cảng ít bị sa bồi, với 25 cầu bến được xác định là cảng tổng hợp quốc gia đầu mối khu vực, bao gồm khu bến tổng hợp container Cái Lân và các bến chuyên dùng vệ tinh. Từ năm 2004 đến nay, Cảng container quốc tế Cái Lân mở rộng 2 lần, đầu tư đồng bộ với trang thiết bị hiện đại, như cẩu bờ STS loại Panamax với 17 hàng container; cẩu ERTG, độ rộng 7 hàng container; dịch vụ xếp dỡ hàng siêu trọng đến 100 tấn tại móc cẩu; xe khung nâng, xe chở container trong bãi…, năng lực tiếp nhận tàu lên đến 80.000 tấn vào làm hàng.
Tại khu vực Cẩm Phả hiện có 7 cầu bến, chủ yếu là cảng chuyên dùng của ngành Than và các bến tổng hợp, phục vụ công nghiệp khai thác than và một số cơ sở công nghiệp tập trung khác. Trong đó bến Cửa Ông có diện tích 20ha với 2 cầu bến liền bờ dài 550m, độ sâu trước bến 10,5m; hệ thống bến phao neo Con Ong – Hòn Nét độ sâu trên 20m có khả năng tiếp nhận tàu đến 120.000 tấn.
Các khu vực cảng khác như Hải Hà, Vạn Gia, Cô Tô… là cảng tổng hợp có chức năng giao lưu bằng đường biển không chỉ cho riêng khu vực, mà còn là cửa ngõ giao thương với Trung Quốc.
Kinh tế biển được xác định là động lực quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh giai đoạn đến năm 2030. Trên cơ sở những tiềm năng, lợi thế nổi trội, thời gian qua tỉnh đã ưu tiên dành nguồn lực cho phát triển kinh tế biển, mở rộng cơ chế thông thoáng và tạo điều kiện tối đa để thu hút các nhà đầu tư cho hạ tầng cảng biển. Đặc biệt để gắn kết chặt chẽ các KKT, KCN với cảng biển, trong triển khai các công trình giao thông động lực luôn có sự kết nối đồng bộ, liên thông, tổng thể với các cảng. Năm 2019, Tỉnh ủy ban hành nghị quyết riêng về phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển (Nghị quyết số 15-NQ/TU) với các giải pháp khả thi, phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm, gắn với tình hình thực tế của tỉnh.
Từ năm 2020 đến nay, thông qua mở rộng cơ chế thông thoáng và tạo điều kiện tối đa để thu hút các nhà đầu tư cho hạ tầng cảng biển, tỉnh luôn thể hiện rõ quan điểm đồng hành cùng các nhà đầu tư trọn vòng đời dự án qua việc tập trung tháo gỡ bất cập, thu hút đầu tư phát triển hạ tầng logistics, nhất là các loại hình dịch vụ đại lý hàng hải, cung ứng thiết bị tàu biển, cho thuê bến bãi… Tỉnh cũng triển khai các chính sách hỗ trợ bền vững, lâu dài cho chủ tàu, chủ hàng, chủ phương tiện vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ khi lựa chọn khu vực cảng biển Quảng Ninh. Đồng thời tạo điều kiện hỗ trợ chủ cảng, bến tìm kiếm đối tác là các hãng tàu, chủ hàng, công ty kinh doanh logistics. Tỉnh xây dựng cơ chế giám sát chất lượng hoạt động dịch vụ cảng biển và khuyến khích các doanh nghiệp cùng ngành nghề tham gia hiệp hội để hỗ trợ, giúp nhau phát triển, hướng tới tổ chức các chương trình xúc tiến, thu hút nguồn hàng bằng lợi thế cạnh tranh…
Bằng sự cầu thị và tinh thần hợp tác cùng phát triển, từ năm 2020 đến nay, Quảng Ninh đã thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách cho 10 dự án hạ tầng, dịch vụ cảng biển, tổng vốn gần 65.000 tỷ đồng, như Cảng Vạn Ninh, dự án điện khí LNG, Bến cảng cao cấp Ao Tiên… Đồng thời tiếp tục đẩy mạnh đầu tư cảng hàng lỏng Yên Hưng, tổng mức đầu tư gần 800 tỷ đồng; bến cảng đa năng đảo Hòn Miều, tổng mức đầu tư hơn 1.000 tỷ đồng; bến cảng sông Chanh 3 với 6 bến cảng tiếp nhận tàu tải trọng đến 50.000 DWT, tổng công suất thông qua 12 triệu tấn hàng hóa/năm, tổng mức đầu tư khoảng 7.700 tỷ đồng…
Với hạ tầng đang và sắp có, Quảng Ninh có đầy đủ điều kiện lý tưởng của một trung tâm logistics và tâm điểm của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, là điểm kết nối quan trọng trong hoạt động vận tải và lưu thông hàng hoá với các vùng lân cận. Đây là những điều kiện hàng đầu để khai thác và phát triển dịch vụ hàng hải, trung chuyển hàng hoá từ các cảng Quảng Ninh tới các cửa khẩu, KKT, KCN trên toàn miền Bắc. Kinh tế biển của Quảng Ninh có ưu thế cạnh tranh nổi trội so với các địa phương khác trong khu vực; phù hợp với xu thế phát triển của vận tải hàng hoá đang được ưa chuộng trên thế giới, đó là đường biển, để có hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Nhận diện thách thức, nắm bắt những cơ hội mới
Dù cảng biển Quảng Ninh có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên nhìn nhận khách quan, đến nay những lợi thế này vẫn ở mức tiềm năng. Điều này có thể thấy rõ khi hầu hết cảng biển của tỉnh vẫn trong tình trạng dư thừa năng lực, giá trị khai thác còn ở mức khiêm tốn do thiếu nguồn hàng. Cảng biển được xác định có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế – xã hội, sau khi định vị và thí điểm một số giải pháp, tỉnh đã nhận diện được những thách thức để xây dựng kế hoạch phát triển dài hơi.
Ông Hoàng Quang Hải, Giám đốc Sở GTVT tỉnh, cho biết: Cơ hội mới của cảng biển Quảng Ninh đã bắt đầu, tuy nhiên để nắm bắt tốt cơ hội này không dễ dàng, bởi sức cạnh tranh của cảng biển Quảng Ninh còn yếu với khá nhiều lý do. Đó là đầu tư vào kết cấu hạ tầng cảng biển cần nguồn vốn lớn, trong khi nguồn hàng xuất, nhập chưa ổn định, vì thế nhiều dự án triển khai chậm, nhà đầu tư chưa thực sự mặn mà; hoạt động dịch vụ cảng biển và logistics còn gặp khó khăn, ảnh hưởng bởi chính sách xuất, nhập khẩu; nguồn hàng, chân hàng tại các KCN, vùng sản xuất cung cấp cho các hãng tàu, chủ tàu còn thiếu và chưa ổn định; giải pháp liên kết, tiêu thụ, giao nhận, vận chuyển hàng hóa từ các tỉnh thông qua cảng biển Quảng Ninh chưa có nhiều đổi mới.
Một số chuyên gia cho rằng, cạnh tranh kém là do công tác quảng bá thương hiệu cảng biển Quảng Ninh còn yếu và thiếu. Các hãng tàu và chủ hàng nước ngoài chưa biết nhiều về hệ thống cảng biển của Quảng Ninh. Trong khi đó tại hệ thống cảng liền kề là TP Hải Phòng, thương hiệu cảng, bến bãi an toàn và các dịch vụ sau cảng đã được xây dựng từ khá sớm, hình ảnh cảng biển duy nhất vùng Đông Bắc Việt Nam đã được Hải Phòng quảng bá tương đối sắc nét. Do vậy khi mở các tờ khai, đơn hàng, chủ hàng thường lựa chọn Hải Phòng để đưa tàu đến.
Để phát triển cảng biển, logistics là yếu tố cực kỳ quan trọng, quyết định đến năng lực cạnh tranh của các cảng. Song tại Quảng Ninh, logistics mới chỉ dừng lại ở việc làm đại lý tàu biển, dịch vụ lai dắt hỗ trợ, cung ứng một số dịch vụ đơn giản. Trong khi các dịch vụ đòi hỏi công nghệ cao, như sửa chữa, bảo dưỡng tàu, lặn ngầm khảo sát thân vỏ và siêu âm kiểm tra hàng hóa, thay vì phải mở khóa niêm phong container đều phải nhờ vào dịch vụ từ Hải Phòng. Các đơn vị khai thác quản lý cảng chưa thực sự quan tâm đến hệ thống luồng lạch, nâng cấp, cải tạo cảng bến…
Quảng Ninh đang phát huy lợi thế cảng nước sâu, thu hút được tàu quốc tế trọng tải lớn đến làm hàng. Tuy nhiên các tàu cỡ lớn kết nối nhiều nước qua cảng Cái Lân mới chỉ có hàng nhập về, thực hiện bốc dỡ và chuyển tải; trong khi nguồn hàng quay đầu để xuất sang các nước trong lộ trình chưa có. Vì thiếu nguồn hàng lưu thông chiều ngược lại, do đó chi phí vận chuyển tăng cao, khiến các hãng tàu và chủ hàng khá e ngại khi chọn cảng Quảng Ninh.
Cũng bởi thiếu chân hàng, các cảng của Quảng Ninh hiện chủ yếu hoạt động dưới dạng cảng tổng hợp, ngay cả Cảng container quốc tế Cái Lân là cảng chuyên dùng của mặt hàng container, nay bổ sung làm mặt hàng rời. Vì thế việc phân khu chưa rõ ràng, ảnh hưởng đến hàng hóa lưu bến. Minh chứng là sau 5 năm hoạt động nhập khẩu ô tô về Việt Nam tại cảng Cái Lân, đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách tỉnh từ thuế, năm 2016 hãng tàu Kline và Công ty TNHH NYK Việt Nam đã quyết định chuyển việc vận chuyển ô tô sang Cảng Hải Phòng. Nguyên nhân là do cảng chưa phân khu chức năng, thiếu bãi đỗ xe làm hàng đã khiến việc trung chuyển hàng hoá bị tắc nghẽn; thiếu các thiết bị kiểm tra chuyên ngành, nên việc kiểm tra chưa đồng bộ, hiệu quả.
Tại các cụm cảng khác, như Vạn Gia, dù có vị trí địa lý thuận lợi, tàu thuyền ra, vào tăng, tuy nhiên chủ yếu vẫn là phương tiện thủy nội địa và phương tiện nhỏ của Trung Quốc dưới 200 DWT, các mặt hàng chủ yếu là rượu, thuốc lá, đồ đông lạnh, xỉ than. Hoạt động hàng hải khu vực Quảng Yên cũng gặp khó khăn do luồng hàng hải vào các cảng chưa được khơi thông, nạo vét và mở rộng độ sâu phù hợp, nên các nhà đầu tư còn dè dặt…
Để khắc phục những hạn chế trên, đồng thời tiếp tục nâng cao năng lực toàn diện của hệ thống cảng biển, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế…, Quảng Ninh đang tập trung rà soát, hiện thực hóa các quy hoạch và có định hướng dài hơi cho phát triển. Trong đó chú trọng đầu tư hạ tầng du lịch; khai thác đồng bộ, hiệu quả các cảng biển tổng hợp, cảng trung chuyển quốc tế, cảng chuyên dùng, gắn với các dịch vụ hỗ trợ; phát triển đội tàu vận tải biển với cơ cấu hợp lý, ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu thị trường vận tải, tham gia sâu vào các chuỗi cung ứng nhằm từng bước gia tăng, chiếm lĩnh thị phần quốc tế… Điều này sẽ góp phần phát huy lợi thế của cảng biển Quảng Ninh, hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược, tham gia vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh và đất nước, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia “mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn”.