Nhìn lại quá trình phát triển công nghiệp của Việt Nam trong 73 năm qua cho thấy, công nghiệp đã có những bước tiến được ví như “xương sống” của nền kinh tế.
Động lực cho tăng trưởng kinh tế
Đến nay, công nghiệp đã thể hiện vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa và phát triển kinh tế, là “chìa khóa” để tạo nên sự thịnh vượng của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, phát triển công nghiệp là nội dung quan trọng, gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
Trong giai đoạn 10 năm (2011 2020), cơ cấu ngành công nghiệp đã dịch chuyển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước khẳng định vai trò quan trọng, là động lực cho tăng trưởng kinh tế. Tỷ trọng của công nghiệp trong GDP đã tăng từ 26,6% năm 2011 lên 27,5% năm 2020. Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp ngày càng tích cực theo hướng giảm tỷ trọng các ngành khai thác tài nguyên, từ 9,9% năm 2011 xuống 5,6% năm 2020 và tăng tỷ trọng của các ngành chế biến, chế tạo, từ 13,4% lên 16,7% trong cùng thời kỳ, góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm công nghiệp của khu vực và thế giới.
Công nghiệp chế biến, chế tạo đã trở thành động lực tăng trưởng chủ yếu của ngành công nghiệp và nền kinh tế, với tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế, bình quân cả giai đoạn đạt 10,4%/năm. Cơ cấu nội ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cũng có sự chuyển biến tích cực, với tỷ trọng ngày càng tăng của các ngành công nghiệp nền tảng và công nghiệp hỗ trợ, từng bước đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện trong nước, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa…
Trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển nhảy vọt, đóng góp lớn vào thành tựu phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Cùng các hoạt động thu hút đầu tư với sự tham gia của nhiều tập đoàn kinh tế lớn và công ty đa quốc gia hàng đầu tại Việt Nam, các doanh nghiệp (DN) công nghiệp trong nước cũng đã có bước phát triển, vươn lên mạnh mẽ, trong đó đã hình thành và phát triển được các tập đoàn kinh tế lớn hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp cơ bản, vật liệu, cơ khí chế tạo, như Viettel, Vingroup, Trường Hải, Thành Công, Hòa Phát… tạo nền tảng cho công nghiệp hỗ trợ, giúp Việt Nam từng bước tham gia sâu hơn vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Một trong những DN tham gia sâu vào chuỗi cung ứng như Thaco Trường Hải cho thấy khát vọng đưa sản phẩm công nghiệp sản xuất chế tạo Made in Vietnam ra toàn cầu chính là động lực thôi thúc DN vươn lên từ những ngày đầu. Ghi nhận từ Thaco Trường Hải, tỉ lệ nội địa hoá của DN này còn cao hơn, có những dòng xe lên tới 70%. Các DN và đơn vị vệ tinh cho Trường Hải bao gồm: Trung tâm R&D; Trung tâm Cơ khí chế tạo và 17 nhà máy sản xuất linh kiện phụ tùng.
Với những bước tiến như vậy, Thaco đang ngày càng chứng minh rằng DN Việt Nam hoàn toàn có thể làm chủ được công nghệ sản xuất ôtô, công nghiệp cơ khí đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Đây cũng là những “viên gạch” đặt nền móng quan trọng để hướng tới xây dựng một nền kinh tế độc lập và tự chủ.
Hay như công nghiệp thép, từ một nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào thép nhập khẩu, đến nay, ngành thép Việt Nam đã vươn lên làm chủ khoa học – công nghệ, làm chủ nền công nghiệp thép với tổng công suất sản xuất 25 triệu tấn thép thô/ năm, xuất khẩu (XK) thu về hàng chục tỷ USD. Đặc biệt, từ chỗ phụ thuộc vào thép nhập khẩu, đến nay, Việt Nam đã XK thép với kim ngạch hàng tỷ USD mỗi năm.
Công nghiệp nền tảng giữ vai trò chủ đạo
Mặc dù đạt được nhiều kết quả, tuy nhiên, thời gian qua ngành công nghiệp mới phát triển về chiều rộng mà chưa phát triển về chiều sâu, tiến trình công nghiệp hóa trong công nghiệp thực hiện chậm.
Nêu cụ thể hơn, ông Trương Thanh Hoài – Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) – bày tỏ trăn trở về câu chuyện phụ thuộc khối FDI trong sản xuất công nghiệp. Các ngành công nghiệp của Việt Nam hiện nay phát triển mô hình kiểu cũ dựa vào xuất khẩu. Riêng ngành điện tử mỗi năm xuất khẩu khoảng 95 100 tỷ USD; dệt may xuất khẩu khoảng 40 tỷ USD; da giảy xuất khẩu khoảng 20 tỷ USD. Đây là 3 ngành Việt Nam tập trung chủ yếu ở khâu hạ nguồn, nhân công giá rẻ mà tổng kim ngạch xuất khẩu đã chiếm khoảng 150 tỷ USD/270 tỷ USD hàng năm.
Nhìn từ câu chuyện phát triển công nghiệp, ông Hoài nhìn nhận, mặc dù hiện nay FDI vào Việt Nam rất tốt nhưng nếu đặt trường hợp lương tăng quá cao, FDI rút đi thì Việt Nam sẽ còn lại gì? Trong trường hợp khi thu nhập trên đầu người của Việt Nam tăng cao lên, nguy cơ FDI rút khỏi Việt Nam là khá rõ ràng.
Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long phân tích, tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều vào khối doanh nghiệp FDI sẽ khiến nền kinh tế mất tự chủ và nội lực ngày càng trở nên suy yếu. “Với độ mở kinh tế lớn, nhưng quy mô còn hạn chế, sức chống chịu có hạn, buộc chúng ta phải xây dựng nền kinh tế tự chủ để chống chọi các tác động bên ngoài” – ông Ngô Trí Long nêu ý kiến.
Để phát triển công nghiệp thành ngành xương sống, đòi hỏi cả doanh nghiệp và chính quyền sự bền bỉ chịu khó, quyết tâm quyết liệt và tham gia vững chắc từng bước một. Để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, Việt Nam cần tiếp tục theo đuổi mục tiêu công nghiệp hóa, lấy công nghiệp chế biến, chế tạo làm trọng tâm, trong đó tập trung xây dựng nền sản xuất tự chủ. Nâng cao nội lực về trình độ khoa học, công nghệ, nhân lực cũng như thúc đẩy liên kết, tham gia mạng sản xuất toàn cầu.
Chia sẻ về phát triển ngành công nghiệp trong dài hạn hướng tới mục tiêu xây dựng nền công nghiệp tự chủ, chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong phân tích, Nghị quyết Đại hội XIII đã xác định mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. “Đây là mục tiêu khá thách thức, đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cũng như những đột phá về hệ thống chính sách phát triển công nghiệp để thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ mới” – chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong nêu quan điểm.
Ngoài ra, Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 và Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2030 được kỳ vọng sẽ là nền tảng vững chắc để Việt Nam hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030. Đến năm 2035, công nghiệp Việt Nam được phát triển thân thiện với môi trường, công nghiệp xanh…
Chiến lược sẽ huy động hiệu quả mọi nguồn lực từ các thành phần kinh tế trong nước và từ bên ngoài để phát triển, tái cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng hiện đại. Chính phủ đã xác định 3 nhóm ngành công nghiệp lựa chọn ưu tiên phát triển, gồm: Công nghiệp chế biến, chế tạo; điện tử và viễn thông; năng lượng mới và năng lượng tái tạo.
Đáng chú ý, đến năm 2035, công nghiệp Việt Nam được phát triển với đa số các chuyên ngành có công nghệ tiên tiến, chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, cạnh tranh bình đẳng trong hội nhập quốc tế; đội ngũ lao động chuyên nghiệp, có kỷ luật có năng suất cao, chủ động trong các khâu nghiên cứu, thiết kế, chế tạo.
Mục tiêu cụ thể: Tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm công nghiệp giai đoạn 2021-2025 đạt 7,0-7,5%/năm; giai đoạn 2026- 2035 đạt 7,5-8,0%/năm; tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2021- 2025 đạt 11,0-12,5%/năm và giai đoạn 2026-2035 đạt 10,5- 11,0%/năm.