Chiều 29/11, trong khuôn khổ chương trình thăm chính thức Nhật Bản từ ngày 27/11 đến 30/11, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã có bài phát biểu quan trọng tại Quốc hội Nhật Bản. Báo Nhân Dân trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Chủ tịch nước.
Kính thưa Ngài Chủ tịch Hạ viện Nukaga Fukushiro,
Kính thưa Ngài Chủ tịch Thượng viện Otsuji Hidehisa,
Thưa các vị Nghị sĩ Quốc hội Nhật Bản,
Tôi trân trọng cảm ơn Quý vị đã dành cho tôi vinh dự được phát biểu tại Quốc hội Nhật Bản – cơ quan lập pháp lâu đời nhất ở châu Á, nơi đề ra nhiều quyết sách lập pháp quan trọng cho tiến trình phát triển của Nhật Bản trong 135 năm qua. Đây là một tình cảm đặc biệt mà Quý vị đã dành cho nhân dân Việt Nam, Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam mà tôi là người đại diện vào thời điểm rất có ý nghĩa – kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1973-2023) giữa hai nước chúng ta.
Thay mặt Nhà nước, Nhân dân Việt Nam và với tình cảm cá nhân, tôi xin gửi tới các vị Nghị sĩ Quốc hội và Nhân dân Nhật Bản lời chào trân trọng và nồng nhiệt nhất. Xin chân thành cảm ơn về sự đón tiếp trọng thị, thân tình dành cho tôi và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam.
Thưa Quý vị,
Từ khi còn trẻ, tôi đã có cơ hội đến thăm Quý quốc trong chương trình giao lưu, gặp gỡ thanh niên Việt Nam – Nhật Bản. Những chuyến thăm ấy, được gặp gỡ các bạn trẻ Nhật Bản, được sống cùng gia đình Nhật Bản đã để lại trong tôi những kỷ niệm, ấn tượng tốt đẹp về con người Nhật Bản mến khách và thân tình; đất nước Nhật Bản đẹp như những bông hoa anh đào, tâm hồn Nhật Bản thanh bình, sâu lắng như những vần thơ Haiku, tinh thần Nhật Bản kiên cường, cao thượng như những chiến binh Samurai, ý chí Nhật Bản kiên định, vững vàng như núi Phú Sĩ.
Cho đến hôm nay, trong chuyến thăm Nhật Bản lần này, dù trên cương vị mới, song trong tôi vẫn giữ nguyên những kỷ niệm tốt đẹp của gần 30 năm trước khi tới thăm Nhật Bản. Đồng thời, cảm nhận sâu sắc hơn về đất nước Mặt Trời mọc phát triển giàu mạnh, vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế; Nhật Bản luôn là đối tác tin cậy, người bạn thân thiết, luôn ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam trên con đường xây dựng và phát triển đất nước, cùng đóng góp cho hòa bình, ổn định và thịnh vượng ở khu vực và thế giới.
Trong buổi gặp mặt ý nghĩa hôm nay, tôi xin chia sẻ với Quý vị một số nội dung cơ bản về mối quan hệ giữa hai nước chúng ta; tầm nhìn về tương lai và vị trí của mối quan hệ đó đối với hai dân tộc, cũng như đối với hòa bình, hợp tác, phát triển tại khu vực và trên thế giới.
Thưa Quý vị,
1. Mối lương duyên giữa hai dân tộc Việt Nam – Nhật Bản.
Hai nước, hai dân tộc chúng ta có mối quan hệ lịch sử lâu đời từ hơn 1000 năm trước. Khởi đầu là giao lưu nhân dân, đến hợp tác chính trị, ngoại giao, kinh tế. Theo các sử liệu nghiên cứu, từ thế kỷ thứ 8, nhà sư Phật Triết của Việt Nam đã tới tỉnh Nara tham dự pháp hội khai nhãn đại tượng Phật, mở đầu lịch sử giao lưu về Phật giáo và Nhã nhạc Cung đình giữa hai nước. Đến thế kỷ 16, những Châu ấn thuyền của Nhật Bản đã qua Việt Nam buôn bán, làm ăn, lập nên những con phố, cây cầu mang đậm kiến trúc Nhật Bản, nay vẫn được gìn giữ ở Hội An. Đó là mối lương duyên giữa Công chúa Ngọc Hoa và Thương nhân Araki Sotaro; là tình bạn cao đẹp giữa Nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu với Bác sĩ Asaba Sakitaro…
Việt Nam và Nhật Bản có cùng nền văn minh lúa nước, cùng phải vượt qua thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên, của chiến tranh tàn phá. Chính từ đó đã tôi luyện nên những con người có đức tính kiên cường, bất khuất, cần cù, năng động, sáng tạo, coi trọng giá trị hoà hợp cộng đồng và gia đình, chung thuỷ, tình nghĩa trước sau, tôn kính tổ tiên, hiếu thuận với cha mẹ, luôn hướng tới giá trị chân – thiện – mỹ để hoàn thiện nhân cách.
Nhà chí sĩ Phan Bội Châu của Việt Nam đã nhận định Việt Nam – Nhật Bản là hai nước “đồng văn, đồng chủng, đồng châu”. Tuy không gần nhau về địa lý nhưng hai nước có nhiều sự tương đồng, gắn kết về văn hóa, lịch sử, con người. Sự tương đồng về văn hóa, lịch sử, con người và truyền thống giao lưu bền chặt giữa nhân dân hai nước hàng nghìn năm qua đã là chất keo gắn kết tình cảm hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước. Nếu dùng một câu thật khái quát, ngắn gọn và cảm xúc về quan hệ hai nước chúng ta, tôi xin nói đó là: “Lương duyên trời định”.
Thưa Quý vị,
2. Việt Nam: Quá khứ, hiện tại và tương lai
Đất nước chúng tôi đã phải trải qua những năm tháng dài chiến tranh bảo vệ Tổ quốc để gìn giữ vẹn toàn non sông, giành lấy quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Sức mạnh để dân tộc Việt Nam vượt qua mọi gian khó để dựng nước và giữ nước, chính là tinh thần đại nghĩa, chí nhân của một dân tộc luôn yêu chuộng hòa bình, hòa hiếu, hữu nghị và tôn trọng các dân tộc khác.
Trong một thế giới có nhiều biến động, từ truyền thống và triết lý của dân tộc mình, từ kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam xác định và nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại: Độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Trong quá trình đó, chúng tôi xác định, quan hệ với các nước láng giềng là ưu tiên hàng đầu, quan hệ với các nước lớn và các đối tác chiến lược toàn diện có ý nghĩa chiến lược, quan hệ với các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, một số đối tác khác có ý nghĩa rất quan trọng và coi trọng quan hệ với các đối tác truyền thống. Cùng với đó, chúng tôi thực hiện đường lối quốc phòng “bốn không” là: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Nếu trước kia, Việt Nam được biết đến là đất nước có chiến tranh, kém phát triển, thì ngày nay, qua gần 40 năm Đổi mới – Việt Nam đã trở thành đất nước của hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Chúng tôi đứng thứ 35 thế giới về GDP, đứng thứ 5 ở châu Á và thứ 20 trên thế giới về thu hút FDI và trao đổi thương mại, Việt Nam đã tham gia 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn của Liên hợp quốc, giảm từ trên 50% (năm 1986) xuống còn 4,3% (năm 2022). Chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường. Cải cách thể chế, phát triển kết cấu hạ tầng và xây dựng nguồn nhân lực được đẩy mạnh. Cải cách tư pháp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật, phòng chống tham nhũng đạt nhiều kết quả quan trọng. Việt Nam hiện có quan hệ ngoại giao với 193 nước, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược hoặc đối tác toàn diện với 30 nước; là thành viên của 70 tổ chức khu vực và toàn cầu.
Chúng tôi đang nỗ lực phấn đấu thực hiện mục tiêu đến 2030, Việt Nam là nước phát triển, có nền công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để mục tiêu đó trở thành hiện thực, chúng tôi coi trọng vai trò của người dân với tất cả quyền con người, quyền công dân là trung tâm của các chính sách và hoạch định tương lai. Đồng thời, phải cố gắng nhiều hơn nữa, khắc phục cho được những khó khăn, hạn chế đang cản trở quá trình phát triển đất nước.
Việt Nam khâm phục chính sách cải cách và phát triển kinh tế-xã hội đã giúp Nhật Bản trở thành một cường quốc về kinh tế, có vai trò, vị thế quốc tế quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Những thành tựu của đất nước Mặt Trời mọc là nguồn cổ vũ lớn lao, là kinh nghiệm hữu ích, là động lực to lớn đối với Việt Nam.
Thưa Quý vị,
3. Nhìn lại chặng đường 50 năm quan hệ Việt Nam – Nhật Bản
50 năm qua, Việt Nam-Nhật Bản đã cùng nhau tiến từng bước vững chắc trong xây dựng một quan hệ bền chặt giữa hai dân tộc. Kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1973 và lần lượt xác lập khuôn khổ quan hệ từ “Đối tác tin cậy, ổn định lâu dài” (năm 2002) đến quan hệ “Đối tác chiến lược Việt Nam -Nhật Bản vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á” (năm 2009), nâng lên thành quan hệ “Đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam – Nhật Bản vì hòa bình và thịnh vượng ở châu Á” (năm 2014), đến hôm nay, hợp tác về chính trị, kinh tế, văn hóa, giao lưu nhân dân giữa hai nước không ngừng được mở rộng, góp phần nâng tầm khuôn khổ, nội hàm quan hệ, thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác toàn diện giữa hai nước.
Nhật Bản là đối tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam, đối tác lớn thứ hai về hợp tác lao động, thứ ba về đầu tư và du lịch, thứ tư về thương mại. Hợp tác quốc phòng, an ninh ngày càng phát triển thực chất, đi vào chiều sâu. Hiện có khoảng 520 nghìn người Việt Nam đang sinh sống, làm việc và học tập tại Nhật Bản; khoảng 22 nghìn người Nhật Bản đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam; có gần 100 cặp địa phương đã thiết lập quan hệ hữu nghị, hợp tác. Đây chính là cầu nối quan trọng để tăng cường quan hệ giữa hai nước Việt Nam – Nhật Bản.
Chúng tôi đã và đang sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA của Nhật Bản cho phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam. Chúng tôi không thể nào quên, trong thời điểm Việt Nam khó khăn nhất, Nhật Bản đã là một trong những nước phát triển đầu tiên bình thường hoá quan hệ và quyết định nối lại ODA cho Việt Nam. Và cho đến nay, ODA của Nhật Bản vẫn đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của Việt Nam.
Bên cạnh đó, mối quan hệ sâu đậm giữa Lãnh đạo hai nước, được dày công xây dựng và vun đắp qua nhiều thế hệ đã là tài sản quý báu trong quan hệ Việt Nam – Nhật Bản. Ngay tại Quốc hội Nhật Bản, một phần ba nghị sĩ là thành viên Liên minh Nghị sĩ hữu nghị Nhật Bản – Việt Nam. Các vị chính là cầu nối quan trọng trong quan hệ giữa hai nước. Tôi đã có may mắn được gặp gỡ và kết giao với nhiều vị trên những vị trí công tác khác nhau. Đặc biệt, chuyến thăm của 1.000 đại biểu do ông Nikai Toshihiro, Chủ tịch Liên minh Nghị sĩ hữu nghị Nhật Bản – Việt Nam dẫn đầu thăm Việt Nam năm 2020, là sự kiện hiếm có trong lịch sử ngoại giao hai nước.
Có thể khẳng định những thành tựu trong quan hệ Việt Nam-Nhật Bản 50 năm qua là nền tảng vững chắc để hai dân tộc tự tin cùng nhau đi tới tương lai.
Thưa Quý vị,
4. Tương lai quan hệ Việt Nam-Nhật Bản
Việt Nam – Nhật Bản có nhiều lợi thế và lợi ích chiến lược để bổ sung cho nhau. Chúng ta có những nét tương đồng chiều sâu về văn hóa, con người. Chúng ta đã tạo dựng những thành quả phát triển kinh tế, thương mại và đầu tư thực chất, hiệu quả. Chúng ta có quyết tâm chính trị mạnh mẽ và mong muốn chung của Nhân dân hai nước vì hòa bình, ổn định, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Hai ngày trước, tôi và Ngài Thủ tướng Kishida Fumio đã cùng ra Tuyên bố chung nâng cấp quan hệ hai nước lên Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới. Đây là sự kiện quan trọng, mở ra chương mới trong quan hệ Việt Nam – Nhật Bản phát triển thực chất, toàn diện, hiệu quả, gắn kết chặt chẽ, đáp ứng lợi ích của hai bên, đóng góp vào hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển ở khu vực và thế giới.
Khuôn khổ quan hệ mới cho phép chúng ta nâng tầm và mở rộng không gian hợp tác, không chỉ trong quan hệ song phương mà còn đối với các vấn đề khu vực và toàn cầu; không chỉ trong các lĩnh vực truyền thống mà còn ở những lĩnh vực hợp tác mới như ứng phó với biến đổi khí hậu, năng lượng sạch, chuyển đổi số, FDI xanh, tài chính xanh, ODA thế hệ mới, đúng với tinh thần