Theo các chuyên gia, Việt Nam từng bỏ lỡ thời cơ khi giá gạo tăng nên việc các nước cấm xuất khẩu gạo hiện nay là cơ hội hiếm có để gạo Việt tăng tốc, chiếm lĩnh thị trường. Theo tính toán, nếu tăng diện tích trong năm nay xuất khẩu gạo có thể tăng thêm 500 triệu USD, bằng số tiền mà Ngân hàng Thế giới (WB) cho Việt Nam vay để thực hiện đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao.
Theo Bộ NN&PTNT, diện tích gieo trồng lúa năm nay của nước ta khoảng 7 triệu ha, với sản lượng khoảng 43 triệu tấn thóc/năm, tương đương với 27-28 triệu tấn gạo.
Hiện tại, nhiều ý kiến cũng băn khoăn về việc nếu đẩy mạnh xuất khẩu gạo trong bối cảnh này, Việt Nam có đảm bảo về an ninh lương thực? Tính toán của Bộ NN&PTNT ở kịch bản “an toàn rất cao” cho thấy, lượng lúa dùng cho đảm bảo an ninh lương thực của 100 triệu dân và các nhu cầu tiêu thụ nội địa khác (dùng chế biến thức ăn chăn nuôi, dự trữ trong dân, dự trữ quốc gia, làm giống…) khoảng 29,5 triệu tấn/năm.
Như vậy, cả nước sẽ còn khoảng 13,5 triệu tấn thóc, tương đương 7-8 triệu tấn gạo dành cho xuất khẩu. Cùng với đó, lượng nhập khẩu từ Campuchia đạt khoảng trên 1 triệu tấn mỗi năm, có thể bù đắp trong trường hợp cần thiết.
Ông Nguyễn Như Cường, Cục trưởng Cục Trồng trọt cho biết, hiện Chính phủ đã chỉ đạo tăng dự trữ nguồn gạo quốc gia và năm nay nguồn cung vụ Đông – Xuân 2023-2024 đến sớm do nhuận 1 tháng nên Việt Nam hoàn toàn yên tâm về việc đảm bảo an ninh lương thực. Do đó, lãnh đạo Cục Trồng trọt ủng hộ việc DN cần tận dụng cơ hội để tăng cường xuất khẩu gạo.
GS-TS Võ Tòng Xuân cho rằng, Việt Nam đã có kinh nghiệm rất đau thương về bỏ lỡ cơ hội xuất khẩu gạo. Năm 2008, cả thế giới đều bị khủng hoảng về lương thực. Lúa mì, lúa gạo đều bị mất mùa. Khi đó, các nước nhập khẩu gạo đều rất lo. Philippines là khách hàng nhập khẩu gạo lâu năm của Việt Nam, diện tích lúa cũng bị thiệt hại rất nặng. Khi đó, giá gạo đang 350 USD/tấn, song Chính phủ Philippines bằng lòng mua với giá 800 USD/tấn.
“Các DN cần tích cực tiếp thị một cách chuyên nghiệp, bao gồm việc quảng bá trên các phương tiện truyền thông ở Anh. Lúc đó, gạo Việt Nam chắc chắn sẽ tăng thị phần tại Anh”. Thương vụ Việt Nam tại Anh cho hay
Tuy nhiên, khi đó Việt Nam tưởng rằng giá gạo sẽ tiếp tục tăng cao hơn, rồi lo sợ thiếu gạo nên cấm xuất khẩu đánh mất cơ hội. Còn Thái Lan đã tận dụng bán gạo giá cao với 800-900 USD/tấn. “Hiện tại, Việt Nam đã sản xuất 3 vụ lúa/năm nên chúng ta không lo thiếu gạo. Không phải lúc nào cũng có cơ hội tốt như hiện nay, chúng ta cần phải nắm bắt”, ông Xuân cho hay.
Thông tin từ Thương vụ Việt Nam tại Anh cho biết, với cộng đồng hơn 5,5 triệu người gốc Á, nhu cầu tiêu dùng gạo tại Anh hiện rất lớn trong khi quốc gia này phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu. Nửa cuối năm 2023, thị trường Anh được dự báo thiếu hụt nguồn cung khoảng 75.000 tấn gạo. Năm 2024, nhu cầu tiêu thụ gạo dự kiến sẽ tăng trưởng 2,1%.
Theo Thương vụ Việt Nam tại Anh, dù là nước xuất khẩu gạo trong top 3 thế giới nhưng Việt Nam mới chỉ là nước xuất khẩu gạo vào Anh đứng thứ 14 với thị phần 0,6%. Gạo Việt Nam xuất sang Anh cũng như nhiều nước khác thường được bán dưới thương hiệu của các nhà phân phối, khiến người tiêu dùng không nhận biết được nguồn gốc gạo từ Việt Nam.
Trong khi đó, lợi thế của gạo Việt ở thị trường Anh là giá bán cao nhất bình quân 1.093 USD/tấn. Do đó, trước việc Ấn Độ ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo, Thương vụ Việt Nam tại Anh nhận định đây là cơ hội có một không hai cho gạo Việt Nam tại thị trường này.
Có thể tăng thêm 500 triệu USD
Lãnh đạo Bộ NN&PTNT cho biết, để tận dụng thời cơ xuất khẩu gạo, bộ đang tập trung chỉ đạo tổ chức sản xuất tốt, nhằm đảm bảo cung ứng sản lượng.
Hiện, Bộ NN&PTNT đã giao các Cục: Trồng trọt, Thủy lợi, Bảo vệ Thực vật xem xét tình hình hạn mặn, xem có khả năng tăng diện tích vụ Thu Đông bao nhiêu là hợp lý. Nếu tăng thêm 50.000ha lúa vụ Thu Đông, Việt Nam có thể thu thêm 100 triệu USD, vừa góp phần cung ứng lương thực cho thế giới và mang lại thu nhập cho nông dân.
Đối với vụ Đông Xuân, lãnh đạo Bộ NN&PTNT chia sẻ rất quan tâm, ngay sau vụ Thu Đông kết thúc đã chỉ đạo rõ về kỹ thuật, bám sát hạn mặn, khung thời vụ xuống giống từ tháng 10, thu hoạch càng sớm càng tốt, kết thúc khung thời vụ là 31-12, né mặn, hạn, còn có thêm gạo phục vụ xuất khẩu.
“Bộ cũng yêu cầu các cơ quan chuyên ngành của bộ như: Cục Bảo vệ Thực vật, Cục Quản lý, Chế biến và phát triển thị trường xử lý các rào cản kỹ thuật trên tinh thần tạo điều kiện tối đa cho DN xuất khẩu càng sớm càng tốt để mở rộng các thị trường mới, đa dạng hóa thị trường”, lãnh đạo Bộ NN&PTNT cho hay.
Ông Nguyễn Huy Khôi, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ và Hợp tác Quốc tế, Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam cho biết, triều cường năm nay được dự báo cao hơn trung bình nhiều năm nhưng không căng thẳng như năm 2022. Vì vậy, nếu gia tăng diện tích vụ Thu Đông năm nay thêm 50.000 ha so với kế hoạch ban đầu là 650.000 ha, vẫn đảm bảo được an toàn cho toàn bộ diện tích. Bởi thực tế cho thấy, có những năm trước đây, diện tích lúa Thu Đông lớn hơn nhiều so với hiện nay. “Đây là cơ hội để tổ chức lại ngành hàng lúa gạo, tăng cường liên kết, giảm giá thành, tăng thu nhập cho người trồng lúa”, ông Khôi nhận xét.
Giá lúa Hè Thu hiện cao hơn 2.000 đồng/kg so với cùng thời điểm của năm 2022. Chỉ cần giá lúa bình quân cả năm nay ở ĐBSCL cao hơn giá lúa năm 2022 khoảng 500 đồng/kg, ngành lúa gạo khu vực này sẽ có thêm 12.000 tỷ đồng, tương đương với 500 triệu USD, bằng với số tiền WB cho Việt Nam vay để thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao.