Theo tinh thần ấy, hồi những năm 1930, từ một làng nhỏ trên Cù lao Giêng (Chợ Mới – An Giang), ông nội tôi đã đi nhiều nơi tìm bà con dòng họ và lần về cội nguồn quê quán.
Gia phả được ông ghi chép đến ông sơ đời thứ nhứt là “ở Quảng Ngãi hay Bình Định, mà gốc gác chắc cũng từ vùng Thanh Nghệ, tránh giặc mùa mà lưu lạc vô nơi này…”. Theo cuốn gia phả này thì đời ông nội tôi là thứ 5 và đến tôi là đời thứ 7.
Thời mở đất
Gia phả nhiều gia đình, dòng họ ở Nam Bộ cũng ghi nhận quê hương là miền Trung từ nhiều đời trước… Từ trong lịch sử, những đợt chuyển cư từ vùng Ngũ Quảng vào đất Đồng Nai – Gia Định diễn ra không ồ ạt nhưng tương đối đều đặn và liên tục.
Những đoàn lưu dân tự phát gồm người cùng quê hương bản quán, cùng dòng họ, theo quy luật “người đi trước rước người đi sau”, đến những đợt di dân quy mô lớn do triều Nguyễn tổ chức, “những người dân có vật lực ở xứ Quảng Nam, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn mộ vào Nam khai phá” như Lê Quý Đôn ghi chép trong Phủ biên tạp lục…
Nương theo bờ biển bằng những chiếc ghe bầu, lưu dân vào miền đất mới theo hai con đường chính: từ cửa Cần Giờ ngược dòng Đồng Nai vào vùng Gia Định. Từ đó có thể đi theo sông rạch về miền Tây mà nơi dừng chân đầu tiên là khu vực Long An ngày nay.
Một con đường khác là đi vào các cửa sông Tiền thuộc vùng Mỹ Tho, Bến Tre rồi dừng chân trên những giồng, gò còn hoang sơ nhưng rộng rãi bằng phẳng, gian nan khai khẩn trồng trọt, đánh bắt cá tôm… bắt đầu cuộc sống trên “vùng đất mới”.
Vài đời sau vì kế sinh nhai, vì chiến tranh hay những lý do khác, con cháu họ di chuyển và phân tán đi nhiều nơi, khai phá vùng đồng bằng rộng lớn.
Chính vì vậy mà ở Nam Bộ có rất nhiều di tích phản ánh thời “mở đất”: đình làng, đền, miếu, lăng mộ… thờ cúng bái vọng những nhân vật lịch sử, mà phần lớn gốc gác đều từ vùng Ngũ Quảng.
Lưu danh sử sách
An Giang quê tôi là nơi có nhiều di tích của những công thần nhà Nguyễn quê ở miền Trung, nổi bật là hai danh thần Nguyễn Hữu Cảnh và Nguyễn Văn Thoại.
Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh là người có công lớn trong việc khai hoang, lập làng, xác định chủ quyền, bình định an dân… trên vùng đất Gia Định xưa nên cư dân Nam Bộ lập nhiều đình, miếu, kính cẩn tôn thờ ông là “Thượng đẳng phúc thần”.
Tại An Giang, dọc bờ sông Tiền ngày trước, nơi mà thuyền ông từng đi ngang hoặc ghé qua, cư dân xây dựng nhiều đình, dinh để ghi nhớ công trạng. Ở huyện Chợ Mới, nơi ông từng dừng chân năm 1.700 được gọi là cù lao Ông Chưởng.
Cù lao Ông Chưởng từ lâu đã gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của huyện Chợ Mới. Đây là một trong những vùng đất được khai phá đầu tiên của tỉnh An Giang, mở ra cơ hội cho lưu dân người Việt khai phá, định cư, lập làng, tiến tới xác lập chủ quyền.
Một danh thần của thời mở cõi khác, là Thoại Ngọc Hầu.
Ông tên Nguyễn Văn Thoại, quê tại huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Cuộc đời binh nghiệp của Thoại Ngọc Hầu trải qua chiến trận và gian khổ giai đoạn “Gia Long tẩu quốc”…
Sau khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước, ông nhậm chức trấn thủ trấn Vĩnh Thanh (1817). Tại đây, ông đã thực hiện việc khẩn hoang lập ấp, đào kinh đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất mới.
Năm 1818, ông vâng lệnh vua cho đào kênh Thoại Hà nối rạch Đông Xuyên (Long Xuyên) với ngọn Giá Khê (Rạch Giá). Vua Gia Long đã cho phép lấy tên ông để đặt cho tên núi (Thoại Sơn) và tên kênh (Thoại Hà).
Năm 1819 Thoại Ngọc Hầu khởi công đào kênh Vĩnh Tế, sau 5 năm con kênh quan trọng này hoàn thành (năm 1824). Con kênh nối liền Châu Đốc – Hà Tiên có ý nghĩa quan trọng trong giao thông vận tải và an ninh quốc phòng.
Đặc biệt có tác động lớn đến phát triển nông nghiệp vì kênh đưa nước ngọt sông Hậu vào rửa phèn ở vùng đất mặn, tạo điều kiện cho dân chúng đến khai hoang lập ấp, xây dựng xóm làng. Từ đây lại có thêm nhiều gia đình dòng họ từ miền Trung tiếp tục truyền thống mở đất đến định cư ở “vùng đất mới”.
Năm 1823, ông cho lập 5 làng trên bờ kênh Vĩnh Tế. Năm 1825, ông cho đắp con đường từ Châu Đốc lên Lò Gò (tức thị trấn Angkor Borei thuộc Campuchia ngày nay) – Sóc Vinh nối các làng với nhau rất tiện lợi trong việc đi lại của nhân dân. Năm 1826 ông cho đắp lộ Núi Sam – Châu Đốc, dài 5km. Làm xong, ông cho khắc bia “Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương” dựng tại núi Sam để kỷ niệm.
Năm 1828 ông dựng bia Vĩnh Tế sơn, nội dung tế cô hồn những dân binh, đồng thời ông cho thu nhặt và cải táng hài cốt của những người đã mất trong khi đào kênh Vĩnh Tế…
Hiện nay khu mộ ông Thoại Ngọc Hầu và hai người vợ của ông tại chân núi Sam là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Nơi đây còn là một vùng văn hóa tâm linh quan trọng của cả Nam Bộ, ghi dấu ấn giai đoạn xây dựng và củng cố vùng đất biên cương Tây Nam của Tổ quốc.
Văn hóa lưu truyền từ Ngũ Quảng
Nhìn lại lịch sử khẩn hoang mở đất của ông cha ta, mới thấy việc di dân đến vùng đất mới trải qua vô vàn khó khăn, thách thức.
Thời chúa Nguyễn di dân tự do thường xuyên, “dân đi trước chính quyền đi sau”. Qua triều Nguyễn các đợt di dân ngày càng lớn hơn, được nhà nước tổ chức và khuyến khích nên hiệu quả rõ ràng và nhanh chóng.
Trong nửa đầu thế kỷ 19, nhà Nguyễn tổ chức bộ máy hành chính, đáp ứng kịp thời việc mở rộng lãnh thổ, tổ chức quân đội bảo toàn những thành quả đạt được, ổn định cuộc sống của dân ở vùng đất mới… Quá trình này có vai trò quan trọng của lưu dân Ngũ Quảng, người Hoa và các cư dân bản địa, họ cùng nhau thực thi công cuộc khai khẩn và phát triển vùng đất mới.
Đi vào miền Nam với công cụ, vũ khí và kinh nghiệm lao động, lưu dân còn mang theo nền văn hóa phong phú. Đờn ca tài tử Nam Bộ là một trong những thành tựu kế thừa và phát triển vốn văn hóa lưu truyền từ Ngũ Quảng.
Từ nhạc lễ, hát bội và một số sinh hoạt âm nhạc khác, đờn ca tài tử mang tính ngẫu hứng sáng tạo, lời ca và nhạc điệu phản ánh nhu cầu của con người ở không gian văn hóa xã hội mới. Người Nam Bộ luôn coi đờn ca tài tử là phần quan trọng của đời sống tinh thần, không thể thiếu trong các dịp lễ tết, giỗ chạp, cưới hỏi, hội họp…
Về phương Nam nghe đờn ca tài tử, ta được đắm mình hoài niệm về cội nguồn lắng đọng trong từng bài bản, từng điệu hò, giọng ca giản dị chân thành…
Và dù đã trải qua hàng trăm năm với những biến thiên lịch sử, vẫn còn đó những đền miếu thờ công thần danh tướng có công mở mang đồng bằng sông Cửu Long, những ngôi đình thờ các vị “tiền hiền hậu hiền” góp sức xây dựng từng làng xóm.
Từ hơn 300 năm trước đến nay, bao lớp người từ miền Trung đã ra đi. Đi một ngày đàng… những “sàng khôn” của thế hệ trước luôn được thế hệ sau tiếp nhận, tích lũy, bồi đắp, góp phần xây dựng đất phương Nam và nhiều vùng miền khác.
Nguồn: https://baoquangnam.vn/ve-phuong-nam-lang-nghe-3139072.html