Ông Trần Đình Tư kể, ông hoạt động cách mạng rất sớm. Từ năm 1956 đã tham gia đấu tranh đòi hiệp thương và quyền lợi cho dân. Năm 1964 vào du kích chiến đấu tại vùng tranh chấp Duy Tân. Năm 1967 được kết nạp Đảng, làm Phó Công an xã Xuyên Phú. Năm 1968 là Bí thư Chi bộ Sông Lô thuộc xã Xuyên Phú. Từ năm 1969 – 1970 làm Trưởng ban vận động “Đưa dân ra kéo dân về” tuyên truyền lôi kéo dân từ khu Đức Dục – An Hòa (bị địch đẩy vào đó nhằm cắt đứt liên hệ với cách mạng) trở lại làng.
Sa vào tay giặc
Giữa tháng 10/1970, nghĩ địch đã hành quân về đồn, ông Tư cải trang làm nông dân đầu đội nón lá, vác cuốc đi thăm lúa. Lúc ngang qua cánh đồng bỗng nghe tiếng bọn địch nằm trên gò cách đó khoảng 60m gọi giật ngược. “Ê thằng kia lại đây – Tôi biết mình bị phục rồi” – ông Tư nhớ lại. Trong người ông khi đó mang 1 súng ngắn và lựu đạn. Nhìn về phía địch ông giả bộ nói “Chờ tý”, rồi đột ngột vứt cuốc chạy nhanh về hướng khe núi, vừa chạy vừa la lớn “tôi bị phục” để du kích gần đó biết bắn yểm trợ. Được khoảng 200m thì ông bị chúng bắn gãy chân, ngã quỵ xuống ruộng. Máu me chảy nhiều trên thân thể nhưng ông Tư vẫn cố bò đến bờ ruộng nằm, tay cầm lựu đạn thủ thế. Do mất máu nhiều, lát sau ông Tư lả đi, chỉ kịp chôn súng và lựu đạn vào bùn. Địch ép một phụ nữ đi thăm đồng xuống lôi xác ông lên bìa gò.
Chúng trói hai tay và chân còn lành của ông lại xỏ cán cuốc khiêng vào khu dồn dân. Nhiều người biết nhưng giả lơ vì sợ liên lụy, kể cả gia đình, vợ con cũng không dám nhận mặt ông. Lát sau lính quận xuống đưa ông Tư vào tiểu khu Đức Dục. Ông Tư bê bết máu me ở chân, bùn đất nhưng địch chỉ lấy 2 miếng ván ép bó vào.
Qua 5 ngày tra tấn liên tục, ông Tư vẫn không nhận mình là Việt cộng, địch đưa ông xuống Hội An giam trong cầu tiêu. Sáng hôm sau, chúng xiềng 2 tay ông vào băng ca khiêng lên hỏi cung, ông cũng chỉ lặp lại lời khai như trước. Không thể khuất phục, bọn chúng ghi dòng chữ “Tù binh cộng sản đội viên du kích thôn” vào mảnh giấy gắn vào túi áo ông và chuyển ra Bệnh viện Duy Tân (Đà Nẵng). Lúc này chân ông Tư nhiễm trùng sưng to. Nằm chờ gần 1 ngày thì được gây tê mổ, đau thấu trời. Gần 2 tháng vết thương lành và bó bột, địch đưa ông Tư về giam tại phòng thương binh Nhà lao Non Nước.
Ông Tư nhanh chóng kết nối những đảng viên trong tù và được bầu làm Bí thư chi bộ với 9 đảng viên, 20 đoàn viên và 23 quần chúng. Chi bộ kết hợp Đảng ủy nhà lao quản lý, động viên tù binh kiên cường đấu tranh chống khủng bố, đòi dân chủ, dân sinh… Kẻ địch điên cuồng đàn áp. “5 đến 7 ngày chúng tôi tổ chức đấu tranh một lần, lúc bạo động, lúc bất bạo động, không cho chúng vào trại điểm danh, tên nào vô thì bắt làm con tin để nêu yêu sách. Địch phản ứng bằng cách bắn đạn vào đàn áp dã man” – ông Tư kể lại.
Trong trại, ông Tư và các tù binh tổ chức dạy học những người mù chữ bằng than củi vẽ xuống đất. Đồng thời, động viên các tù binh không lung lạc tư tưởng mà chiêu hồi, cố gắng chịu đựng đừng để tiếng xấu sau này khi đất nước thống nhất.
Giữa tháng 4/1972, địch chuyển tù binh ra Phú Quốc bằng tàu thủy. Cuối tháng 5 thì đến đảo. Ông Tư bị giam ở phân khu 11. Phòng ông Tư chứa 100 người, chật chội vô cùng. Mỗi ngày địch phát tù binh một ca nước nên lúc nào cũng thiếu nước uống, thiếu nước tắm. Trong trại, ông Tư tiếp tục kết nạp đoàn viên và tổ chức đấu tranh như kiên quyết không đi qua cờ ngụy, không chào cờ ngụy… Giặc điên cuồng đàn áp, nhiều người bị thương, thậm chí chết, nhưng ông Tư và các bạn tù vẫn không sợ hãi, nao núng.
Sống sót trở về
Ông Tư tâm sự, suốt những năm tháng tù đày ông không bao giờ nghĩ sẽ có ngày được trở về. Dù vậy, niềm tin Đảng, Bác Hồ, niềm tin về một ngày đất nước hòa bình, thống nhất vẫn luôn cháy bỏng. Ngày 17/3/1973, ông Tư được trao trả tại sân bay Thiện Ngôn (Tây Ninh) cùng 25 người khác. Lúc trao trả, địch phát mỗi tù binh một bộ đồ lính ngụy, một cái túi đựng, một đôi dép, một cái võng, một cái mùng, một cái mền, tuy nhiên lúc lên máy bay tất cả mọi người đều vứt hết xuống đất chỉ mặc bộ đồ tù hoặc ở trần.
Ông Tư được đưa về cơ quan Trung ương Cục Đông Nam Bộ, tại đây các cựu tù nghỉ ngơi, ăn uống thoải mái. Nửa tháng sau mọi người được phân công về những vị trí từng công tác như trước khi bị bắt. Những ai bị thương nặng thì chuyển ra Bắc điều dưỡng. Mặc dù vẫn đi nạn do chân còn yếu nhưng ông Tư từ chối ra Bắc và xin ở lại chiến trường miền Nam. Ông Tư được phân về làm Trung đội trưởng văn phòng K4. Ở thời gian thì Đặc khu Quảng Đà vào nhận người.
Tháng 1/1974, ông Tư đến công tác tại Nông trường Quyết Thắng (huyện Đông Giang ngày nay) làm nhiệm vụ tiếp nhận hàng hóa miền Bắc đưa vào. Giữa năm 1974 thì đi học trường Đảng của tỉnh 20 ngày, về làm chánh văn phòng nông dân hoạt động trong căn cứ Hòn Tàu, rồi làm công tác dân vận phụ trách công tác nông dân. Năm 1975, đất nước thống nhất ông Tư về Ban Dân vận Huyện ủy Duy Xuyên đến năm 1988 thì nghỉ hưu.
Tròn 90 tuổi đời, gần 60 năm tuổi đảng, ông Trần Đình Tư có lẽ là số ít cựu tù yêu nước vẫn còn khỏe mạnh, mình mẫn. Ký ức về những tháng năm đấu tranh kiên trung giữa chốn ngục tù đế quốc dường như chưa bao giờ phai nhạt trong ông. Nhìn lại chặng đường đã qua và những đổi thay của quê hương sau 50 năm giải phóng, ông Tư khẳng định những hy sinh, gian khổ của ông và các cựu tù yêu nước đã được đền đáp xứng đáng, bây giờ dù có nhắm mắt xuôi tay ông cũng mỉm cười mãn nguyện.
Ngày 27/4/2012, ông Trần Đình Tư và tập thể chiến sĩ cách mạng bị địch bắt, tù đày tại Trại giam Phú Quốc được Chủ tịch nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ tranh nhân dân vì có thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Nguồn: https://baoquangnam.vn/hoi-uc-cua-mot-cuu-tu-yeu-nuoc-kien-trung-3152622.html