Ngôi làng cổ
Chiêm Sơn là một làng cổ được ghi nhận trong sách “Ô Châu cận lục” của Dương Văn An từ những năm 1553 – 1555. Làng trước đây thuộc tổng Mậu Hòa, phủ Duy Xuyên, nay thuộc xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên.
Làng có nhiều di tích đặc biệt quan trọng, gắn liền mối quan hệ giao lưu tiếp biến văn hóa Champa – Đại Việt. Từ dinh Bà Chiêm Sơn và lệ cúng Bà cho đến các di tích thời Nguyễn với lăng Vĩnh Diễn (Hiếu Văn hoàng hậu của Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên), lăng Vĩnh Diên (Đoàn Huệ phi, vợ Thượng vương Nguyễn Phúc Lan, mẹ của Hiền vương Nguyễn Phúc Tần)…
Theo các bậc cao niên làng Chiêm Sơn, lịch sử khai phá lập làng ghi nhận công đức của các vị tiền hiền trong việc thiết lập xã hiệu, lập thôn ấp, lập đình miếu, cầu cống… Nổi bật 3 tộc tiền hiền là Nguyễn Công, Nguyễn Văn và Nguyễn Đình.
Tộc Nguyễn Công với ngài Tiền hiền thủy tổ Nguyễn Tá Hiền, trước năm 1945 tộc trưởng Nguyễn Công Kiên còn giữ được một quyển mục lục năm Thái Đức thứ 6 (1783), một quyển phổ ý năm Minh Mạng thứ 16 (1835).
Tộc Nguyễn Văn có ngài Tiền hiền thủy tổ Nguyễn Văn Minh, con cháu từng bảo quản một quyển phổ ý năm Giáp Tuất (1754), một tờ trường biên năm Thái Đức thứ 8 (1785).
Tộc Nguyễn Đình có ngài Tiền hiền thủy tổ Nguyễn Đình Tứ. Ngoài ra làng còn có một số tộc họ được dự vào hàng hậu hiền.
TS. Trần Đình Hằng – Phân Viện trưởng Phân viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia tại Huế cho biết, tư liệu về kết quả khảo sát trước năm 1945 cho thấy ở làng Chiêm Sơn có 14 đạo sắc phong triều Nguyễn dành cho ngài Cao Các, Thành hoàng, Thái Dương phu nhân (Bà Chiêm Sơn) và nhân vật Chánh Đội trưởng Suất đội Trần Văn Phú.
Đáng chú ý, bản sắc phong năm Duy Tân thứ 5 (1911), Bà Chiêm Sơn từ Thái Dương Phu Nhân chi thần được phong Nhàn/Trinh Uyển Dực Bảo Trung Hưng chi thần. Đến sắc phong năm Khải Định 9 (1924), Bà được gia tặng Trai Tĩnh Trung đẳng thần.
Cội nguồn sâu thẳm
Dân làng truyền tụng từ xa xưa về một hiện tượng dị thường, mang tên Thần tích làng Chiêm Sơn. Ấy là cốt tượng Bà tự nhiên nổi lên trên mặt nước ở bến Tây An, nơi rừng cấm làng Mậu Hòa. Dân chúng các làng lân cận thấy ngài hiển linh, đến xin rước Bà về thờ nhưng đều gánh không nổi. Khi ấy dân làng Chiêm Sơn cũng đến xin rước Bà về để thờ thì được Bà đồng ý (có truyền thuyết nói là 8 trẻ mục đồng).
Người ta muốn thỉnh Bà đến cạnh Dinh Ông (ngài Cao Các) nhưng đến xứ Bàu Đưng, dây thừng bị đứt. Dân làng biết ý Bà muốn ở lại, bèn xin thiết trí tự miếu và tổ chức cúng tế thường niên trang nghiêm, cung kính. Đặc biệt, đại lễ 3 năm một lần tổ chức mời hát tuồng dâng lên Bà.
Theo nguyên lý hiến sinh để cầu an với khát vọng phồn thực, trong lễ Bà, dân làng dâng cúng những vật phẩm là thổ sản trong vùng với nhiều ý nghĩa đặc trưng. Lễ vật bắt buộc phải có cua đồng, cây tỏi nguyên rễ, cây cải đủ rễ và hoa, cá lóc nấu om và đặc biệt phải có một con chồn quay.
Tính thiêng của vật tổ và tín ngưỡng vạn vật hữu linh đã giúp giải mã, làm rõ ý nghĩa biểu tượng của lễ vật. Chính nhờ cội nguồn linh thiêng sâu thẳm mà Dinh Bà trở thành tâm điểm cho lễ hội truyền thống Bà Chiêm Sơn.
Đậm dấu ấn văn hóa
Tượng Bà Chiêm Sơn thờ nơi chính điện có chiều cao 56cm, chân xếp bằng rộng 54cm, thân dày 13cm, đầu cao 18cm, cánh tay dài 28,8cm, bàn chân dài 17cm.
TS. Trần Đình Hằng cho rằng, điểm đặc biệt từ pho tượng Bà, vốn đã được Việt hóa nhiều nhờ khả năng sơn vẽ qua thời gian. Xung quanh tượng vẫn được bảo bọc, nâng đỡ bởi bảy đầu rắn thần Naga tạo thành một lọng che trên đầu và bên dưới, ngồi trên lưng rắn, tựa như vật cưỡi linh thiêng.
Gần đây, dân làng cố gắng trả lại nguyên bản linh tượng với nhiều nét nguyên thủy như tai dài, mũi to, môi dày – ngẫu tượng khá xa lạ với người Việt.
TS. Trần Đình Hằng lý giải: “Rắn – rồng và những cấp độ hóa thân là biểu tượng cô đọng nhất cho khát vọng cầu mùa của cư dân nông nghiệp.
Nếu như rồng được biểu tượng hóa nổi bật trong thế giới vương quyền phong kiến phương Bắc thì trong văn hóa bản địa phương Nam, đó chính là thần rắn Nagar.
Có thể nói, 7 đầu rắn Nagar trong tượng thờ Bà Chiêm Sơn là dấu ấn hiếm hoi về phía cực bắc giữa hai vùng ảnh hưởng văn minh rồng – rắn.
Từ các ngài rắn quanh tượng thờ Bà Chiêm Sơn, người Việt lúa nước vùng châu thổ sông Thu Bồn đã biểu tượng hóa ba ngài rắn thành Tam vị Thủy tướng, được hiển linh và thờ tự phổ biến trong các làng xã ven sông Cái, ra tới làng Thanh Hà và Cù Lao Chàm ở Hội An, thời Nguyễn được sắc phong Phục Ba tướng quân”.
Với hệ thống các điểm thiêng từ Trà Kiệu cho tới Bà Thu Bồn (ở Thu Bồn, ở Trung An), Bà Chiêm Sơn, nối liền Bà Chúa Ngọc trên núi Ấn, đến Bô Bô phu nhân ở Cù Lao Chàm…, dòng sông Cái – Sài Thị – Thu Bồn đầy thiêng liêng huyền hoặc, cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng trong lịch sử và văn hóa xứ Quảng.