(QBĐT) – Tôi đã đến Tân Trào (Tuyên Quang) nhiều lần, nhưng lần này đặc biệt: Bên thềm kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam…
Trên bước chân lữ hành, có dấu chân người xưa-những người đã làm nên lịch sử hiện đại Việt Nam. Bồi hồi lần giở từng trang lịch sử trong ký ức…
Cuối năm 1946, trong một lần sau phiên họp Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hỏi đồng chí Võ Nguyên Giáp, lúc đó là Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia: “Nếu địch mở rộng chiến tranh trên miền Bắc thì Hà Nội giữ được bao lâu?”. Đồng chí Võ Nguyên Giáp thưa rằng: “Giữ được một tháng, các thành phố khác ít khó khăn hơn, vùng nông thôn nhất định ta giữ được”. Nghe xong, Người quyết định: “Ta lại trở về Tân Trào”.
Nếu như lần thứ nhất, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tân Trào chiều 21/4/1945 thì lần “Ta trở lại Tân Trào” của Người là ngày 2/4/1947. Nơi Bác Hồ đặt chân đến là làng Sảo, xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương. Từ xã Hợp Thành, qua xã Bình Yên là đến xã Tân Trào.
Tân Trào-Thủ đô khu giải phóng, trung tâm “Thủ đô kháng chiến” thuở nào xanh ngăn ngắt, gió núi thầm thì, những hàng cây cổ thụ trầm mặc, linh nghiệm. Thôn Tân Lập (làng Kim Long cũ), xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang ngày càng đẹp mê hoặc bởi những dãy nhà sàn, nép mình ở lưng chừng núi Hồng.
|
Tân Trào giấu trong lòng mình một phần của lịch sử, từ những câu chuyện đã kể, đã hiển thị trong thư tịch, lẫn những câu chuyện còn chưa kể. Đoàn chúng tôi chầm chậm lên lán Nà Nưa (còn gọi là lán Nà Lừa), trở lại mái đình Tân Trào, thăm cây đa Tân Trào và vào thăm Khu tưởng niệm các vị tiền bối cách mạng. Ở đâu cũng thấy bóng dáng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp-người con ưu tú của quê hương Quảng Bình.
Trong lần thứ nhất, từ chiến khu Cao Bằng, sau nhiều ngày băng rừng lội suối, lãnh tụ Hồ Chí Minh về tới Tân Trào. Nơi đây chính thức trở thành căn cứ của cách mạng. Cũng từ thời điểm này, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp luôn ở bên cạnh Người để chuẩn bị các công việc cho tổng khởi nghĩa.
Những năm tháng đó, chính Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp xây dựng, mở rộng khu giải phóng. Mặt khác, ông đã đề xuất mở Trường Quân chính kháng Nhật để đào tạo đội ngũ cán bộ quân sự đầu tiên, sau trở thành những cán bộ nòng cốt trong cuộc tổng khởi nghĩa.
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là người trực tiếp vâng lệnh Bác Hồ thảo ra các bức điện hỏa tốc triệu tập các đại biểu về dự hội nghị toàn quốc của Đảng và sau đó là Quốc dân Đại hội Tân Trào để ra quyết định lịch sử quyết định tổng khởi nghĩa một cách nhanh chóng, mau lẹ.
Chị Lò Thị Tâm, người Tày bản địa là hướng dẫn viên du lịch Khu di tích quốc gia đặc biệt Tân Trào kể lại, để bảo đảm bí mật và thuận tiện làm việc, chính Bác Hồ đã bàn với cán bộ địa phương dẫn Bác đi chọn địa điểm để dựng một căn lán. Nà Nưa lưng chừng núi có ưu điểm mà Bác Hồ chọn lựa: “Gần nước, gần dân, xa đường quốc lộ, thuận đường tiến, tiện đường thoái”.
Thời khắc trước Tổng khởi nghĩa năm 1945, Bác không may bị ốm nặng. Thời gian ấy, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp nghỉ lại với Bác ở lán Nà Nưa, lúc tỉnh Bác có dặn lại rằng: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Đó là câu nói bất hủ của Người.
“Trước tình hình sức khỏe của Bác như vậy, Đại tướng đã viết thư hỏa tốc về Trung ương và tìm hỏi bà con địa phương tìm cách chữa bệnh cho Bác. Qua sự mách bảo của bà con, đã tìm được ông cụ lang già người Tày đến xem mạch, sờ trán Bác, rồi đốt cháy một thứ củ vừa đào trong rừng về, hòa vào cháo loãng đưa Bác ăn. Sau vài lần, Bác tỉnh và lại gượng dậy tiếp tục làm việc ngay”, giọng chị Lò Thị Tâm xúc động.
Có một điều kỳ lạ, theo lời kể của chị Lò Thị Tâm, ngày 22/8/1945, trước khi rời lán Nà Nưa để về Hà Nội, Bác nói với bà Trần Thị Minh Châu-một cơ sở địa phương rằng, ở lại xây dựng cơ sở, biết đâu Bác cháu lại gặp nhau. Bác dự cảm chính xác.
Rời lán Nà Nưa, đoàn chúng tôi đến cây đa Tân Trào. Theo Lò Thị Tâm, trước đây, cây đa Tân Trào cành lá sum suê, gồm hai cây mọc cách nhau chừng 10m, người dân địa phương thường gọi với cái tên dân dã là “Cây đa ông” và “Cây đa bà”. Năm 1993, do ảnh hưởng của một trận bão, “Cây đa ông” bị đổ, chỉ còn lại một nhánh nhỏ. Chính quyền địa phương đã chăm sóc, phục hồi, đến nay cây đa Tân Trào đã hồi sinh và sinh trưởng mạnh mẽ, xung quanh trồng thêm 6 cây đa con tượng trưng cho 6 huyện của tỉnh Tuyên Quang.
Giống như quy luật tồn sinh trong tự nhiên, năm 2008, cây đa Tân Trào “lâm bệnh”, chỉ còn duy nhất cành hướng Đông Bắc còn sống nhưng lá không tốt, các rễ chính của cây đa gần như đã hỏng.
Trước tình hình đó, UBND tỉnh Tuyên Quang đã tổ chức “Hội thảo khoa học phục hồi cây đa Tân Trào” với sự tham gia của các nhà khoa học, quản lý lâm nghiệp, di sản văn hóa và sinh vật cảnh trong nước… để tìm phương án “cứu chữa”. Và rồi, cây đa Tân Trào hồi sinh, trong sự vui mừng khôn xiết.
Đứng cạnh cây đa Tân Trào, tôi nhớ 2 sự kiện. Ngày 22/12/1944, tại một khu rừng nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám (Cao Bằng), Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, gồm 34 chiến sĩ do đồng chí Hoàng Sâm làm Đội trưởng-tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp, chính là người học trò được Bác Hồ chọn lựa, giao phó sứ mệnh xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân. Ba năm sau, ngày 20/1/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong quân hàm Đại tướng cho Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp; Đội trưởng Hoàng Sâm được phong hàm Thiếu tướng. Thật kỳ lạ, Thiếu tướng Hoàng Sâm, tên thật là Trần Văn Kỳ cũng là một người Quảng Bình, sinh ra ở làng Lệ Sơn, huyện Tuyên Hóa.
Dưới bóng cây đa Tân Trào này, bản Quân lệnh số 1 được Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đọc lên như lời hiệu triệu cả nước đứng lên giành lại chính quyền. Ngay sau đó, Việt Nam Giải phóng quân làm lễ xuất quân tiến về giải phóng Thủ đô Hà Nội trước sự chứng kiến của toàn thể đồng bào các dân tộc Việt Bắc và 60 đại biểu toàn quốc.
Sự kiện thứ hai, không kém phần thú vị qua lời kể của nữ hướng dẫn viên Lò Thị Tâm kể. Rằng, vào ngày 16/7/1945, khi thiếu tá Allison K. Thomas chỉ huy Biệt đội Con Nai (The Deer Team)-nhảy dù xuống chiến khu Tân Trào, thì vướng vào ngọn cây đa này. Thấy phía dưới có người, họ không dám nhảy xuống. Bác Hồ được báo cáo, chính tay Người viết lên tấm chăn dòng chữ: “Hoan hô phái đoàn Đồng Minh” thì Biệt đội Con Nai mới dám nhảy xuống, dù trên tay vẫn cầm súng lục.
Biệt đội Con Nai là tên một toán đặc nhiệm của Cơ quan Tình báo chiến lược Mỹ OSS (The Office of Strategic Services), tiền thân của CIA sau này. Biệt đội này được hình thành vào giữa năm 1945, với nhiệm vụ là nhảy dù xuống Tân Trào, chuẩn bị cơ sở cho Việt Minh tiếp nhận vũ khí và người Mỹ huấn luyện quân sự cho lực lượng Việt Minh.
Trong cụm di tích xung quanh lán Nà Nưa còn có lán Đồng Minh là lán cho những người lính Đồng Minh thuộc Biệt đội Con Nai ở và làm việc, lán Điện Đài nơi thông tin liên lạc giữa Mặt trận Việt Minh và quân Đồng Minh. Từ những ngày cách mạng “trứng nước”, Bác Hồ đã có sách lược mềm dẻo, linh hoạt, chính sách đối ngoại đa phương.
Rời cây đa Tân Trào, đoàn chúng tôi đến Khu tưởng niệm các vị tiền bối cách mạng ở Tân Trào. Tả, hữu trong nhà tưởng niệm là hai dãy tượng thờ 14 vị tiền bối cách mạng gồm các đồng chí: Trường Chinh, Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Bùi Bằng Đoàn, Phạm Hùng, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Lương Bằng, Lê Văn Lương, Hồ Tùng Mậu, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Chí Thanh và Tố Hữu. Hai bên tượng Đại tướng Võ Nguyên Giáp là tượng bán thân cố Chủ tịch Tôn Đức Thắng và cố Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng) Phạm Hùng.
Tôi cứ nhớ mãi đôi câu đối: “Dẫu nắng dẫu mưa thế thời chuyển vận trời mãi sáng Tân Trào Hồng Thái/Còn non còn nước lòng son không đổi người vẫn về Việt Bắc Tuyên Quang”. Biết bao thông điệp từ quá khứ hiện về.
Ghi chép của Ngô Đức Hành
Nguồn: https://www.baoquangbinh.vn/quoc-phong-an-ninh/202501/tro-lai-tan-trao-2224067/