Theo Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp, hệ thống hồ thủy lợi lớn nhưng nhiều hồ đã tồn tại 100 năm, 50 năm… nhưng chưa có quy định lúc nào dừng khai thác. Hiện hồ chứa có dung tích thật và dung tích thiết kế khác nhau nhiều. Có nhiều hồ chứa sau khảo sát dung tích tăng lên gấp đôi, nhưng cũng có hồ còn một nửa. Bên cạnh đó, việc cảnh báo sớm, cảnh báo xa còn yếu và điều này cần được đầu tư bằng khoa học công nghệ. Đây là những câu chuyện lớn trong quản lý và vận hành hồ chứa thủy lợi.
Thông tin tại hội nghị, ông Nguyễn Đăng Hà, Trưởng phòng An toàn đập và hồ chứa nước, Cục Thủy lợi – cho biết, cả nước có hơn 7.300 đập, hồ chứa thủy lợi. Trong đó, có gần 600 đập dâng có chiều cao trên 5m và hơn 6.700 hồ chứa với tổng chiều dài đập khoảng 1.182km, tổng dung tích trữ khoảng 15,2 tỉ mét khối.
Trong tổng số trên, các hồ chứa thủy lợi có dung tích phòng lũ lớn như Cửa Đạt, Ngàn Trươi, Tả Trạch, Dầu Tiếng… Bên cạnh đó, các hồ chứa thủy lợi còn có nhiệm vụ phục vụ cấp nước phát điện, tạo không gian phát triển điện mặt trời, nuôi trồng thủy sản, phát triển du lịch…
Tuy nhiên, việc lắp đặt thiết bị quan trắc công trình đập, hồ chứa nước – giải pháp quan trọng để theo dõi, đánh giá mức độ an toàn công trình hiện còn hạn chế. Đơn vị lấy dẫn chứng, đã có 5 hồ đã được lắp đặt nhưng chưa hoàn thiện, hoặc hư hỏng cần nâng cấp (Cửa Đạt, Tả Trạch, Cấm Sơn, Kim Sơn, Dầu Tiếng); 5 hồ đã thực hiện (Ngàn Trươi, Ia Mơr, Núi Cốc, Cầu Mới, Sông Ray); 1 hồ đang thực hiện (Đại Lải); 2 hồ chưa thực hiện (Bàu Nhum, Suối Giai). Các tồn tại này cần được khắc phục thời gian tới.
Với các hồ chứa mà đập tạo hồ là đập đất do địa phương quản lý trước lũ năm 2024, cả nước còn khoảng 340 hồ chứa bị hư hỏng nặng. Sau mưa lũ vừa qua, phát sinh thêm 68 hồ, chưa kể các hồ hư hỏng trước lũ phát sinh thêm hư hỏng. Như vậy, 408 hồ chứa bị hư hỏng này chưa được bố trí nguồn vốn để sửa chữa nâng cấp.
Về mặt pháp lý, các hồ chứa thủy lợi phải được vận hành theo quy trình vận hành được lập, phê duyệt, công bố công khai theo quy định. Tuy nhiên, hiện mới chỉ có 28% số hồ được lập quy trình vận hành. Bên cạnh đó, hiện mới có 17% số hồ đã được lắp thiết bị quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng, thiết bị giám sát vận hành hồ chứa như thiết bị đo mưa tự động trên lưu vực, thiết bị đo lưu lưu lượng, mực nước hồ. Trong khi đó, đây là các thiết bị hỗ trợ đắc lực cho công tác chỉ đạo, vận hành hồ theo quản lý vận hành được duyệt và theo diễn biến thực tế.
Nguồn: https://www.mard.gov.vn/Pages/quan-ly-van-hanh-ho-chua-thuy-loi.aspx