Phú Yên ở miền duyên hải Nam Trung Bộ, kết nối hai đầu đất nước, là nơi dừng nghỉ của nhiều vua, quan, danh sĩ ngày trước mỗi khi đi công cán từ triều đình Huế vào Nam. Trước phong cảnh núi sông hùng vĩ, hữu tình, không ít người đã cảm tác đề thơ, trở thành trác tuyệt trong kho tàng văn học sử Việt Nam.
Đồ họa: TRẦN QUỚI |
Đón mùa xuân mới Ất Tỵ 2025, trong bối cảnh cả nước đang chuyển mình mạnh mẽ để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tìm trong chính sử, bồi hồi nhớ lại một vị quan triều Nguyễn có nhiều ý tưởng cải cách, canh tân đất nước, đó là Nguyễn Trường Tộ. Và thật vinh dự, một lần qua Phú Yên trong nước non ngàn dặm, ông đã để lại một bài thơ trác tuyệt giữa núi sông!
TRẢI LÒNG CÙNG ĐẤT NƯỚC
Ông chưa bao giờ là trạng nguyên, nhưng thuở nhỏ học hành quá giỏi, được các thầy đồ xứ Nghệ “phong tặng” để bày tỏ lòng yêu mến một danh sĩ xuất chúng của quê hương như câu thơ của thi thánh Đỗ Phủ: Độc phá vạn trung thư/ Hành quá vạn lý lộ (Đọc nát vạn cuốn sách/ Đi nát vạn dặm đường).
Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) ghi dấu ấn trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX với 30 bản điều trần dâng lên vua Tự Đức và triều đình Huế đề xuất canh tân đất nước về chính trị, nội chính, tài chính, kinh tế, võ bị (quốc phòng), học thuật, ngoại giao và cải cách về văn hóa, bảo tồn di tích lịch sử.
Ông từng được vua Tự Đức tiếp kiến ở nhà Tả Vu trong Tử Cấm Thành (Đại nội Huế) ngày 17/8/1866 và được nhà vua đích thân giao một số nhiệm vụ theo dõi ý đồ của thực dân Pháp.
Ông còn là một kiến trúc sư lỗi lạc trực tiếp thiết kế và chỉ đạo thi công tu viện dòng Thánh Phaolô năm 1864 (ngày nay tọa lạc tại số 4 Tôn Đức Thắng, quận 1, TP Hồ Chí Minh), một công trình kiến trúc độc đáo đậm dấu ấn châu Âu còn lưu giữ đến ngày nay.
Nguyễn Trường Tộ còn giúp Tổng đốc Nghệ An Hoàng Tá Viêm đào kênh Sát ở Hưng Nguyên Nghệ An, phát huy hiệu quả lâu bền cho nền canh nông. Ông ấp ủ mở Trường Kỹ nghệ ở kinh đô Huế, được vua Tự Đức đồng ý nhưng nhiều ý kiến bảo thủ của các trọng thần phá ngang nên ý nguyện không thành. 30 bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ cũng chìm vào quên lãng.
Tháng 11/1870, Nguyễn Trường Tộ gửi thư lên triều đình xin được vào Nam tổ chức đánh úp quân Pháp để thu hồi Nam Kỳ lục tỉnh, nhưng vua Tự Đức dùng dằng không quyết. Ông buồn chán về lại quê nhà và đột ngột từ trần ngày 22/11/1871, khi mới 41 tuổi! Di nguyện của ông khắc hai câu thơ người xưa trên mộ:
Nhất thất túc thành thiên cổ hận
Cố đầu hồi thị bách niên cơ
(Một kiếp sa chân muôn kiếp hận
Ngoảnh đầu cơ nghiệp ấy trăm năm)
Nguyễn Trường Tộ để lại cho đời nhiều tác phẩm nặng lòng với đất nước. Như GS Nguyễn Huệ Chi đúc kết: “…Đóng góp cho văn học Việt, ông để lại nhiều tác phẩm mang phong cách “chính luận – trữ tình”, sắc bén, khúc chiết trong phân tích theo tư duy luận lý, vừa thấm đậm cảm hứng trữ tình của tác giả (phơi trải hết lòng mình)”.
Trong di cảo thơ để lại, thơ Nguyễn Trường Tộ mang phong cách trữ tình, khoáng đạt, hình thành hai nhánh “ngôn chí tự tình” (thể hiện chí khí của mình) và “tức cảnh sinh tình”.
Núi Đá Bia (TX Đông Hòa) nhìn từ xa. Ảnh: HUỲNH LÊ VIỄN DUY |
CẢM NHẬN MỘT PHÚ YÊN HÙNG VĨ
Trong những bài thơ “tức cảnh sinh tình” có tuyệt tác Thạch Bi Sơn ngẫu thành (Trên núi Đá Bia tình cờ thành thơ), được sáng tác trong những năm 1866-1868, trên bước đường xuôi ngược từ Gia Định ra kinh đô Huế, dừng chân ở dịch trạm Phú Hòa trên đỉnh đèo Cả.
Trước cảnh quan diễm lệ, sơn thủy hữu tình: Đá Bia – Vũng Rô – đèo Cả (được vua Minh Mạng chọn khắc vào Tuyên đỉnh – một trong cửu đỉnh được đặt trong Thế Miếu – Đại nội Huế, là một trong chín ngọn núi thiêng của đất nước), trong lòng Nguyễn Trường Tộ nặng trĩu nỗi u hoài giữa núi non hùng vĩ, soi bóng xuống Vũng Rô muôn trùng sóng vỗ.
Năm 2010, người viết bài này được ban biên soạn phân công tuyển chọn các tác phẩm đặc sắc trước năm 1945 đã trân trọng chọn bài thơ này vào sách Văn học Phú Yên 400 năm (1611-2011).
Trước thềm xuân mới 2025, nối tiếp những mùa xuân đất nước đang chuyển động những bước đi mạnh mẽ tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xin được thành kính đề cập một bài thơ tuyệt tác của nhà cải cách chấn hưng đất nước Nguyễn Trường Tộ như một sức mạnh nội sinh tinh thần, tiếp sức hiện tại tiến về tương lai.
Thạch Bi Sơn ngẫu thành
Phong bất năng dao vũ bất thôi,
Bi truyền vạn cổ tự thôi ngôi.
Cô viên như tước bài sơn đỉnh,
Trác lập vô song trấn thủy ôi.
Tưởng thị bổ thiên tằng luyện quá,
Phi quan điền hải bị khu lai.
Nhược di chích trước thành song trước,
Địa tác bàn xan, hải tác bôi!
Nguyễn Văn Dũng tạm dịch:
Trên núi Đá Bia tình cờ thành thơ
Gió chẳng thể rung, mưa chẳng rơi
Bia truyền vạn cổ vẫn cao vời
Mình tròn như gọt bày trên núi
Sừng sững vô song trấn biển khơi
Nghĩ trước vá trời từng đúc luyện
Không ngừng lấp biển đến bờ phơi
Ngọn đơn nếu biến thành đôi ngọn
Đất hóa bàn ăn, biển rượu rồi!
Đất hóa bàn ăn, biển thành chén rượu! Một khí phách hiên ngang “ngẫu thành” trước giang sơn cẩm tú của một nhà cải cách, canh tân đất nước có tư duy đổi mới đến hành động quyết liệt. Tự hào thay quê hương Phú Yên trong lòng danh sĩ!
Đất hóa bàn ăn, biển thành chén rượu! Một khí phách hiên ngang “ngẫu thành” trước giang sơn cẩm tú của một nhà cải cách, canh tân đất nước có tư duy đổi mới đến hành động quyết liệt. Tự hào thay quê hương Phú Yên trong lòng danh sĩ! |
BA ĐÀ RẰNG
Nguồn: https://baophuyen.vn/94/325192/dia-tac-ban-xan-hai-tac-boi.html