Chia sẻ với Báo TG&VN trong một buổi khám và tư vấn sàng lọc sớm ung thư vú (UTV), Tiến sĩ, Bác sĩ (TS. BS.) Nguyễn Thu Hương bày tỏ mong muốn cống hiến cho công việc chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ Việt Nam. Mục tiêu của chị là khi về hưu phải phổ cập sàng lọc loại bệnh này đến tất cả các phác đồ khám và điều trị cho mọi người.
Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Thu Hương tại một sự kiện nâng cao nhận thức về việc tầm soát sớm ung thư vú ở phụ nữ. (Ảnh: NVCC) |
Thưa bác sĩ, tình trạng gia tăng tỷ lệ UTV ở phụ nữ Việt Nam ngày càng gia tăng và trẻ hóa, đâu là nguyên nhân?
Tỷ lệ UTV tăng và trẻ hóa ở phụ nữ Việt Nam có nhiều nguyên nhân khác nhau. Có thể chỉ ra một số nguyên nhân chính như:
Thứ nhất, sự thay đổi của lối sống hiện đại, với những thay đổi trong khẩu phần ăn và hoạt động thể chất. Việc tiêu thụ thức ăn có nhiều chất béo, đường và chất bảo quản, cùng với ít hoạt động thể chất có thể tăng nguy cơ phát triển UTV.
Thứ hai, yếu tố tăng nguy cơ chính là tuổi tác. Phụ nữ trung niên và người cao tuổi có nguy cơ mắc bệnh UTV cao hơn. Tuy nhiên, gần đây, UTV cũng xuất hiện ở những phụ nữ trẻ tuổi hơn. Điều này có thể do sự thay đổi trong môi trường sống và di truyền.
Thứ ba, yếu tố di truyền cũng đóng vai trò làm tỷ lệ UTV gia tăng. Nếu người thân trong gia đình (như mẹ, chị em, con) đã từng mắc UTV, nguy cơ mắc phải bệnh này sẽ cao hơn so với những người không có tiền sử UTV trong gia đình.
Thứ tư, hormon nữ estrogen và progesterone có thể ảnh hưởng đến sự phát triển bất thường của tế bào vú và tăng nguy cơ mắc UTV. Sự tiếp xúc lâu dài với estrogen (như qua việc dùng thuốc tránh thai hoặc hormone thay thế sau mãn kinh) có thể tăng nguy cơ UTV.
Thứ năm, ảnh hưởng của môi trường. Một số chất độc hại có thể có liên quan đến sự phát triển UTV. Tạp chất từ môi trường, hóa chất trong thực phẩm và chất cấm có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh này.
Trên đây là một số nguyên nhân có thể ảnh hưởng đến việc gia tăng tỷ lệ UTV ở phụ nữ Việt Nam. Tuy nhiên, việc xác định chính xác nguyên nhân cụ thể vẫn đòi hỏi nhiều nghiên cứu tiếp theo.
Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Thu Hương nguyên là trưởng nhóm Chẩn đoán hình ảnh vú, chuyên khoa Chẩn đoán hình ảnh tại Bệnh viện Bạch Mai. Hiện nay BS. Hương là Trưởng Đơn nguyên Vú Bệnh viện Đa khoa quốc tế Vinmec Times City kiêm cố vấn chuyên môn cho mạng lưới ung thư vú Việt Nam. Bác sĩ đã có gần 20 năm kinh nghiệm trong trong lĩnh vực chẩn đoán hình ảnh và can thiệp vú. Bác sĩ Hương được đào tạo chính quy trong nước tốt nghiệp bằng xuất sắc nội trú chuyên ngành Chẩn đoán hình ảnh tại Đại học Y Hà Nội. Sau đó, bác sĩ đã thực hành chương trình học bổng quốc tế chuyên sâu về vú tại Trung tâm Vú, Bệnh viện Đại học Quốc gia Seoul tại Hàn Quốc. Bác sĩ tiếp tục trau dồi nghiên cứu tiến sĩ chuyên khoa Chẩn đoán hình ảnh và y học hạt nhân tại Đại học Gunma, Nhật Bản. Ngoài ra, bác sĩ Hương còn tham gia rất nhiều các chương trình đào tạo, hội thảo hội nghị quốc tế như: Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ… |
Vậy những ai là đối tượng hàng đầu có nguy cơ mắc bệnh này cao nhất?
Nhóm đối tượng có nguy cơ mắc cao hàng đầu là:
Phụ nữ trung niên và người cao tuổi. Với tỷ lệ UTV tăng theo tuổi và đạt đỉnh ở khoảng tuổi 50-70. Phụ nữ trung niên và cao tuổi có nguy cơ cao hơn so với các nhóm tuổi khác.
Nguy cơ mắc UTV sẽ tăng lên nếu gia đình có người thân (như mẹ, chị em, con) đã từng mắc bệnh này, đặc biệt là khi còn trẻ.
Những người có biểu hiện lạ trong gene. Một số gen có thể tăng nguy cơ mắc UTV. Đặc biệt, các biểu hiện đột biến của gen BRCA1 và BRCA2 được liên kết chặt chẽ với tăng nguy cơ mắc UTV, đặc biệt ở phụ nữ trẻ.
Những người có tiền sử UTV trước đây. Nếu bạn từng mắc UTV ở một bên, nguy cơ mắc ở bên kia tăng lên.
Những người tiếp xúc với hormone nữ estrogen và progesterone: Tiếp xúc lâu dài với estrogen thông qua sử dụng hormone thay thế sau mãn kinh hoặc thuốc tránh thai có thể gia tăng nguy cơ mắc UTV.
Những người tiêu thụ thức ăn có nhiều chất béo, đường và chất bảo quản, hút thuốc lá, sử dụng rượu và thiếu hoạt động thể chất có thể làm tăng nguy cơ mắc UTV.
Tuy rằng những nhóm này có nguy cơ mắc cao hơn, nhưng việc phát hiện sớm và chăm sóc y tế đều quan trọng cho mọi phụ nữ.
Nâng cao nhận thức về việc sàng lọc sớm giúp nhiều phụ nữ thoát khỏi căn bệnh ung thư vú. Trong ảnh, bác sĩ Nguyễn Thu Hương tại một buổi tầm soát sớm UTV hoàn toàn miễn phí theo chiến dịch PinkWin, tháng 10/2023. (Ảnh: NVCC) |
Bác sĩ đánh giá thế nào về tầm quan trọng của việc nhận thức về những rủi ro mà căn bệnh này đem lại cho phụ nữ Việt Nam hiện nay?
Việc nhận thức đúng và đủ về những rủi ro mà căn bệnh UTV mang lại cho phụ nữ Việt Nam hiện nay vô cùng quan trọng, giúp phụ nữ có ý thức thực hiện kiểm tra định kỳ, bao gồm tự kiểm tra vú thường xuyên và kiểm tra bằng hình ảnh như siêu âm và mammogram. Phát hiện sớm UTV có thể cải thiện tỷ lệ sống sót và cơ hội điều trị hiệu quả.
Hơn thế nữa, nhận thức tốt về rủi ro UTV có thể tạo ra một sự nhận thức tổng thể về lối sống lành mạnh. Phụ nữ có thể thay đổi thói quen ăn uống, tăng cường hoạt động thể chất và giảm stress để giảm nguy cơ mắc bệnh.
Việc này khuyến khích phụ nữ tìm kiếm kiến thức và hỗ trợ từ các nguồn tài nguyên y tế, giúp họ kiểm tra và hiểu rõ hơn về bệnh tình, các biện pháp phòng ngừa và điều trị.
Nhận thức về rủi ro UTV cần được thúc đẩy để bảo đảm nguồn nhân lực y tế nắm vững các kiến thức về phòng ngừa, xác định và điều trị UTV, đồng thời, thúc đẩy nghiên cứu và phát triển công nghệ mới trong lĩnh vực này.
Độ tuổi khuyến cáo cần sàng lọc sớm là từ 40 tuổi, sàng lọc 1 năm/1lần có lợi ích hơn so với 2 năm/1 lần. Sàng lọc kéo dài đến trên 74 tuổi thì cân nhắc vài bất lợi nhỏ của sàng lọc.
Sàng lọc sớm UTV có hiệu quả với số đông. Mỗi cá nhân cần bác sĩ chuyên khoa vú khám cẩn thận vì UTV có thể xảy ra ở bất kỳ tuổi nào, có thể bị chẩn đoán nhầm, muộn và điều trị không đúng, không kịp thời.
Tựu trung lại, tôi đánh giá cao tầm quan trọng của việc nhận thức về những rủi ro mà UTV mang lại cho phụ nữ Việt Nam, vì nó có thể cung cấp những thông tin quan trọng, khuyến khích sự hỗ trợ, phát hiện sớm và chăm sóc tốt hơn cho các phụ nữ bị ảnh hưởng.
Là người có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực, bác sĩ có thể chia sẻ một vài kỷ niệm vui buồn trong quá trình đồng hành cùng bệnh nhân chiến đấu với căn bệnh?
Hơn 20 năm công tác trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ vú, tôi cũng gặp nhiều niềm vui cũng như nỗi buồn trong quá trình chẩn đoán và điều trị.
Chẳng hạn, tháng 10 vừa qua, hàng ngàn chị em đã đến tham gia các buổi tầm soát sớm UTV hoàn toàn miễn phí theo chiến dịch PinkWin tại Trung tâm Vú Vinmec. Nhiều trường hợp được phát hiện các tổn thương lành tính, nghi ngờ, cũng như các tổn thương ác tính thực sự. Đặc biệt, chị C. 52 tuổi, qua thăm khám lâm sàng, siêu âm và chụp X-quang, bác sĩ phát hiện một tổn thương rất nhỏ ở vú trái của chị, chỉ dưới 1 cm, mức độ nghi ngờ cao trên X-quang và siêu âm, đánh giá Birads 4C. Tổn thương đã được sinh thiết ngay sau đó và kết quả là UTV.
Phát hiện sớm như vậy giúp chị C. giảm thiểu chi phí điều trị, bảo đảm về thẩm mỹ cũng như tăng khả năng sống sau 5 năm thậm chí 10 năm tới trên 90%.
Đó chỉ là một trong những kỷ niệm vui trong cuộc đời làm bác sĩ của tôi, còn nhiều niềm vui khi bệnh nhân sớm tìm ra dấu hiệu và xử lý sớm để bệnh không chuyển biến sang các giai đoạn nghiêm trọng hơn hay khi bệnh nhân đạt được tiến bộ trong quá trình điều trị, như giảm kích thước khối u hay làm giảm các dấu hiệu của căn bệnh. Điều này mang lại niềm hy vọng và niềm vui lớn cho bệnh nhân và gia đình của họ.
Đặc biệt, nghề nghiệp đã cho tôi thấy được sự kiên nhẫn và sức mạnh của bệnh nhân trong quá trình chống lại bệnh tật, thể hiện ý chí và quyết tâm kiên định để đối mặt với các thử thách và khó khăn trong quá trình điều trị UTV.
Tôi thực sự buồn khi nhận được kết quả xét nghiệm hoặc chẩn đoán xác nhận bệnh nhân mắc UTV. Những khoảnh khắc đánh dấu sự thay đổi lớn trong cuộc sống của bệnh nhân và gia đình, có thể gây ra sự lo lắng, bất an cho họ, đồng thời cũng để lại cảm xúc buồn cho những y, bác sĩ như chúng tôi.
Đặc biệt là khi xác định rằng bệnh nhân không thể chữa khỏi hoặc căn bệnh đã bước vào giai đoạn cuối. Chúng tôi luôn có phải đối mặt với thực tế khó khăn của người bệnh và những khả năng mất mát.
Phụ nữ Việt Nam ngày càng nâng cao nhận thức về khả năng chữa trị căn bệnh ung thư vú nếu được phát hiện sớm. (Ảnh: NVCC) |
Theo bác sĩ, ngành y tế Việt Nam đã và đang làm những công việc gì để phòng, chống UTV? Trong đó, việc cấp thiết cần làm nhất hiện nay là gì, ở cấp độ quốc gia, tổ chức, cơ quan, cá nhân?
Ngành y tế Việt Nam đã và đang thực hiện nhiều công việc để phòng chống UTV. Có thể kể ra một số hoạt động quan trọng như:
Trước hết là Chương trình quốc gia về sàng lọc ung thư. Chương trình này nhằm tìm kiếm sớm UTV bằng cách cung cấp dịch vụ sàng lọc miễn phí cho phụ nữ từ 35 đến 60 tuổi. Mục tiêu là tăng tỷ lệ phát hiện sớm và giảm tỷ lệ tử vong do UTV.
Tiếp theo, Chính phủ và các tổ chức y tế đã tiến hành các chiến dịch nhằm tăng cường nhận thức và giáo dục cộng đồng về triệu chứng, yếu tố nguy cơ và phương pháp phòng chống UTV. Các hoạt động như hội thảo, khám và tư vấn sức khỏe miễn phí, chương trình truyền thông đại chúng đã được triển khai giúp tăng cường kiến thức và thu hút sự quan tâm của cộng đồng về vấn đề này.
Thêm vào đó, các cơ quan nghiên cứu y tế và tổ chức y tế đang tiến hành nghiên cứu để tăng cường hiểu biết về chẩn đoán, điều trị và phòng chống UTV. Các nghiên cứu mới nhất về gene, y học phân tử và dược phẩm đang được thực hiện nhằm cung cấp thông tin quan trọng để phát triển các biện pháp điều trị và phòng ngừa hiệu quả hơn.
Trong đó, một vài việc cấp thiết cần làm nhất hiện nay là:
Đầu tiên, cần nâng cao tầm quan trọng của sàng lọc định kỳ. Nâng cao nhận thức và tăng cường sự tham gia của cả bệnh nhân và nhà cung cấp dịch vụ y tế trong việc thực hiện sàng lọc định kỳ UTV. Điều này có thể giúp phát hiện sớm các khối u và tăng cơ hội điều trị hiệu quả.
Tiếp theo là đầu tư vào hệ thống chẩn đoán và điều trị. Đầu tư vào các công nghệ y tế tiên tiến, cải thiện cơ sở hạ tầng y tế và đào tạo chuyên gia để cung cấp chẩn đoán chính xác và điều trị hiệu quả nhằm cải thiện kết quả điều trị và sống sót của bệnh nhân.
Đồng thời, phải tăng cường nghiên cứu. Tiếp tục đầu tư vào nghiên cứu về UTV để tìm hiểu về các yếu tố nguy cơ, cơ chế của căn bệnh, để từ đó phát triển các phương pháp phòng chống và điều trị tốt hơn.
Tuy vậy, ngoài y tế, phòng chống UTV là một nhiệm vụ cần sự vào cuộc của các cấp, bao gồm cả chính phủ, các tổ chức xã hội và cá nhân. Quan trọng nhất là sự tham gia tích cực của mỗi cá nhân trong việc tự kiểm tra, duy trì chế độ sống lành mạnh và thực hiện các cuộc kiểm tra định kỳ để phát hiện bất thường và xác định kịp thời.
Bác sĩ có thể chia sẻ kinh nghiệm quốc tế tiêu biểu về việc sàng lọc UTV sớm?
Tôi được biết Mỹ và một số nước châu Âu đã sử dụng X-Quang vú trong chụp sàng lọc hàng loạt định kỳ hàng năm cho phụ nữ từ 40 tuổi trở lên và người dân được chi trả theo chương trình sàng lọc quốc gia.
Tôi muốn kể câu chuyện về Aleisha Hunter, bệnh nhân UTV nhỏ tuổi nhất được biết đến trên thế giới. Cô bé 4 tuổi người Canada lúc nào cũng có nụ cười rạng rỡ và dáng vẻ vô tư, không có dấu hiệu nào cho thấy cô bé đã phải chịu đựng cơn ác mộng y tế tận 15 tháng, kết thúc bằng chẩn đoán UTV và phải cắt bỏ toàn bộ vú.
Aleisha đã sống sót sau căn bệnh khiến bất kỳ phụ nữ trưởng thành nào cũng phải khiếp sợ. Mẹ của bé, Melanie sờ thấy cục nhỏ như hạt đậu ở ngực Aleisha tháng 12/2008, khi bé hai tuổi rưỡi. Bé được chẩn đoán viêm hạch bạch huyết, được dùng kháng sinh, giảm đau nhưng không cải thiện triệu chứng. Melanie chia sẻ: “Về cơ bản, họ không biết đó là gì và tôi không bằng lòng với câu trả lời đó. Cháu ngày càng ốm yếu, đau khá nhiều, chủ yếu vào ban đêm và không ngủ được”.
Khối u to lên đến 2.5 cm (4/2010), mẹ của bé ngày càng lo lắng, khi được cắt bỏ, khối u có kích thước là 5 cm, chuyển màu tím, lan rộng ra như mạng nhện.
Các bác sĩ chẩn đoán Aleisha mắc ung thư biểu mô tuyến vú tiết dịch (juvenile breast carcinoma / secretory carcinoma), xâm lấn và tiết dịch. Đây là ung thư hiếm gặp, chưa có nhiều nghiên cứu nhưng tiên lượng tốt và hầu hết bệnh nhân phục hồi tốt sau điều trị.
Tiến sĩ Nancy Down (Bv North York), đã cắt bỏ thành công toàn bộ vú, nạo vét các hạch bạch huyết vùng nách cho Aleisha. Bé có tiên lượng tốt và khi trưởng thành có thể tái tạo vú: “Khả năng cháu sẽ sống một cuộc đời rất dài”.
Mẹ của bé: “Sau phẫu thuật, cháu khỏe mạnh hơn nhiều, hoạt bát, đang phát triển và tăng cân”. Sau đó, Aleisha đã quen với cuộc sống bình thường như bao em bé khác. Mẹ của bé cũng vượt qua chấn thương tâm lý.
Bác sĩ có thông điệp gì đối với chị em phụ nữ?
Tôi hay nói vui với mọi người rằng “bưởi hay chanh, khỏe, tươi xanh mới đẹp!”. Thông điệp ở đây là, mong phụ nữ chúng ta hãy lắng nghe và yêu thương bản thân, đặc biệt cần chủ động thực hiện thói quen tầm soát UTV.
Trân trọng cảm ơn bác sĩ!