ANTD.VN – Khi Việt Nam hội nhập sâu rộng, doanh nghiệp Việt tham gia nhiều “sân chơi” lớn hơn, “luật chơi” khác nhau thì nguy cơ tranh chấp, lừa đảo cũng lớn và phức tạp hơn. Theo Bộ Công Thương, tình trạng lừa đảo qua mạng không chỉ diễn ra ở khu vực Trung Đông, châu Phi mà ngày càng phổ biến và diễn ra ngay cả tại các thị trường lớn, có uy tín, mức độ rủi ro thấp như Mỹ, châu Âu (Hà Lan, Italia, Na Uy…).
Nhiều hình thức lừa đảo từ doanh nghiệp quốc tế
Bà Trần Thu Quỳnh – Tham tán Thương vụ Việt Nam tại Canada cho hay, số lượng các vụ lừa đảo doanh nghiệp Việt Nam có liên quan đến Canada đang gia tăng nhanh chóng. “Trung bình mỗi tháng chúng tôi ghi nhận khoảng 10 vụ việc lừa đảo, liên quan đến một số chứng chỉ không có thật. Dù đã cảnh báo các doanh nghiệp, tuy nhiên số lượng các vụ việc vẫn không giảm” – bà Trần Thu Quỳnh thông tin.
Doanh nghiệp cần thận trọng xác minh đối tác trước khi giao thương |
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này theo bà Trần Thu Quỳnh chủ yếu bắt nguồn từ 2 yếu tố. Một là từ phía sở tại, mặc dù hệ thống pháp luật của Canada khá minh bạch, rõ ràng để kiểm tra thông tin, các biện pháp chế tài xử lý vi phạm của Canada cũng tương đối mạnh mẽ nhưng thời gian qua, Canada cho phép nhập cư khá ồ ạt từ nhiều quốc gia khác nhau và đều ở trong độ tuổi lao động, do đó cấu trúc xã hội có những biến động. Yếu tố thứ hai là do thị trường toàn cầu khó khăn, các đơn hàng sụt giảm. Vì vậy, doanh nghiệp tìm kiếm các đơn hàng, khi nhận được các đơn hàng từ phía nước ngoài thì doanh nghiệp có xu hướng chủ quan. Đặc biệt khi nhận thấy các đơn hàng từ thị trường Canada thì doanh nghiệp cũng có sự tin cậy khá cao. Vì thế, doanh nghiệp có những sơ hở trong tiếp cận và soạn thảo hợp đồng.
Là một trong những thị trường cũng xảy ra nhiều vụ lừa đảo quốc tế, ông Nguyễn Duy Hưng – đại diện Thương vụ Việt Nam tại Ai Cập cho biết, các vụ việc tranh chấp thương mại giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp Ai Cập trong thời gian qua, cho thấy có 2 dạng tranh chấp chính. Thứ nhất là tranh chấp thương mại có phần yếu tố khách quan tại thị trường. Đây là tranh chấp khá phổ biến trong thời gian qua chủ yếu liên quan đến vấn đề chậm thanh toán của các ngân hàng do thiếu ngoại tệ. Rất nhiều doanh nghiệp xuất khẩu không có nhiều lựa chọn khi hàng cập cảng nhưng bên mua không thể thanh toán tiền hàng theo hợp đồng cũng như không có được bất kỳ cam kết nào của ngân hàng về thời hạn thanh toán.
Khi đó, hàng hóa phải nằm chờ tại cảng dài ngày dẫn tới phát sinh chi phí lưu kho bãi, chất lượng hàng hóa xuống cấp chưa kể đến giá cả thay đổi trên thị trường dẫn đến tranh chấp về chia sẻ thiệt hại. Theo ông Nguyễn Duy Hưng, trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp xuất khẩu phải chấp nhận giao hàng trước (nếu không muốn kéo hàng về hoặc bị hải quan phát mãi do quá thời hạn cho phép) và chuyển sang hình thức thanh toán trả chậm nhằm giảm thiểu tổn thất với hy vọng sẽ nhận được thanh toán đúng hạn.
“Trong bối cảnh thị trường có nhiều biến động, tranh chấp và gian lận thương mại là một vấn đề tồn tại trong giao dịch thương mại quốc tế mà các doanh nghiệp xuất khẩu luôn phải tính đến. Khi Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn với nhiều đối tác hơn, sang nhiều “sân chơi” rộng hơn, “luật chơi” khác nhau thì nguy cơ tranh chấp, lừa đảo cũng lớn hơn, phức tạp hơn”.
Bộ Công Thương
Thứ hai là trường hợp tranh chấp thương mại có dấu hiệu gian lận, lừa đảo. Tranh chấp này thường liên quan đến hợp đồng ký qua môi giới khi doanh nghiệp xuất khẩu không liên lạc trực tiếp với nhà nhập khẩu và mọi thông tin trao đổi đều phải qua người môi giới.
“Đã có trường hợp người môi giới giả danh thư của bên nhập khẩu gửi cho doanh nghiệp Việt Nam đề nghị chuyển các lô hàng sớm dẫn đến bên nhập khẩu không đồng ý nhận hàng do sai so với tiến độ giao hàng theo hợp đồng, buộc doanh nghiệp Việt Nam phải giảm giá gây thiệt hại không nhỏ. Trong khi hợp đồng ký với người môi giới không chặt chẽ, không có ràng buộc trách nhiệm về mặt thu hồi đủ tiền hàng nên tranh chấp phát sinh và bên xuất khẩu luôn phải gánh chịu phần thiệt hại. Ngoài ra, bên nhập khẩu còn có thể lấy lý do khó khăn, kinh doanh thua lỗ để yêu cầu nhận hàng trước và thanh toán tiền hàng sau thành nhiều đợt, tuy nhiên sau đó liên tục trễ hẹn và cuối cùng gây sức ép đòi giảm giá hoặc không thanh toán tiền hàng đợt cuối” – ông Nguyễn Duy Hưng nói.
Bộ Công Thương cho hay, trong bối cảnh thị trường có nhiều biến động, tranh chấp và gian lận thương mại là một vấn đề tồn tại trong giao dịch thương mại quốc tế mà các doanh nghiệp xuất khẩu luôn phải tính đến. Khi Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn với nhiều đối tác hơn, sang nhiều “sân chơi” rộng hơn, “luật chơi” khác nhau thì nguy cơ tranh chấp, lừa đảo cũng lớn hơn, phức tạp hơn. Các lừa đảo và tranh chấp mà doanh nghiệp thường phải đối mặt là do không có điều kiện kiểm tra kỹ lưỡng về đối tác, lựa chọn phương thức thanh toán chưa phù hợp hoặc có thể từ những “gài, cắm” đầy tính toán từ đối tác trong hợp đồng mà doanh nghiệp Việt Nam vốn chưa có nhiều kinh nghiệm.
Bên cạnh đó, dù nhiều ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay đứng hàng đầu thế giới nhưng đa phần các doanh nghiệp Việt Nam lại là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, rất thiếu kinh nghiệm về tranh chấp thương mại quốc tế. Hơn nữa, doanh nghiệp Việt đã quá tin tưởng vào người môi giới. Qua khảo sát thực tế, Bộ Công Thương thấy tại nhiều hợp đồng, người môi giới soạn thảo rất đơn giản, thiếu nhiều điều khoản quan trọng nhưng doanh nghiệp vẫn chấp nhận. “Đáng e ngại hơn, doanh nghiệp cũng đã bỏ qua khâu kiểm tra đối tác trong khi đây là một yêu cầu bắt buộc khi giao dịch với đối tác mới. Vì thế, doanh nghiệp không nhận biết được những dấu hiệu rủi ro. Đặc biệt, lợi dụng thời gian dài bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, trong khi doanh nghiệp có nhu cầu đẩy mạnh xuất nhập khẩu nên có xu hướng chấp nhận rủi ro cao hơn trong giao dịch” – đại diện Bộ Công Thương nói.
Theo Bộ Công Thương, tình trạng lừa đảo doanh nghiệp qua mạng không chỉ diễn ra ở khu vực Trung Đông, châu Phi mà ngày càng phổ biến và diễn ra ngay cả tại các thị trường lớn, có uy tín, mức độ rủi ro thấp như Mỹ, châu Âu (Hà Lan, Italia, Na Uy…).
Cách nào hạn chế rủi ro trong giao thương quốc tế?
Để hạn chế rủi ro trong giao dịch thương mại quốc tế, Bộ Công Thương đã nhiều lần cảnh báo các doanh nghiệp Việt Nam khi giao dịch với các doanh nghiệp nước ngoài cần phải thận trọng và đàm phán kỹ điều khoản thanh toán để bảo đảm an toàn nhất. Theo đó, các doanh nghiệp nên trao đổi với đơn vị tư vấn để hiểu rõ, nắm vững nội dung các điều khoản của hợp đồng, nghĩa vụ của mỗi bên, những trường hợp miễn trừ trách nhiệm, quy định về xử lý tranh chấp, bồi thường…
Còn theo ông Nguyễn Duy Hưng, doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Ai Cập trong giai đoạn hiện nay cần chú ý xem xét kỹ các điều khoản hợp đồng về điều kiện giao nhận hàng, hình thức thanh toán và bổ sung điều khoản xử lý các phát sinh như trường hợp hàng hóa phải lưu tại cảng dài ngày do vấn đề chậm thanh toán từ phía đối tác nhằm giảm thiểu rủi ro khi thực hiện hợp đồng; hạn chế việc ký hợp đồng thông qua môi giới. Trường hợp ký hợp đồng với bên môi giới, cần làm rõ trách nhiệm của môi giới trong việc thu hồi đủ tiền hàng hoặc các điều kiện để thanh toán tiền hoa hồng. Các hợp đồng cần có điều khoản thanh toán trước ít nhất 30% giá trị theo thông lệ tại địa bàn. Đặc biệt, khi có bất cứ yêu cầu thay đổi từ nhà nhập khẩu, doanh nghiệp cần kiểm tra, xác thực lại thông tin người gửi và yêu cầu đối tác gửi văn bản chính thức để có cơ sở giải quyết khi xảy ra tranh chấp.
Thương vụ Việt Nam tại Algeria cũng cho rằng, doanh nghiệp Việt Nam cần tìm kiếm đối tác qua các kênh như tham gia chương trình xúc tiến thương mại, dự hội chợ, triển lãm quốc tế, các diễn đàn doanh nghiệp, các cuộc giao thương trực tiếp, trực tuyến, qua giới thiệu từ các cơ quan xúc tiến thương mại, thương vụ và bạn hàng quen thuộc; Thận trọng khi tìm kiếm bạn hàng qua mạng Internet hoặc giao dịch với đối tác chủ động tìm đến doanh nghiệp Việt Nam qua website.
Trong giao dịch, cần đề nghị đối tác cung cấp bản sao giấy phép kinh doanh, mã số thuế, hộ chiếu trang có ảnh của người đại diện hợp pháp công ty và nhờ các cơ quan chức năng thẩm tra; Không nên quá tin tưởng vào công ty môi giới dù làm việc lâu năm và cần kiểm tra thông tin đối tác nhập khẩu. Về phương thức thanh toán, doanh nghiệp nên dùng thư tín dụng (L/C) không hủy ngang có xác nhận hoặc nhờ thu qua ngân hàng (DP, CAD at sight) yêu cầu khách đặt cọc từ 20% trở lên. Do ngân hàng Algeria không cho phép chuyển tiền đặt cọc từ trong nước nên có thể đề nghị khách đặt cọc ngoài Algeria. Thỏa thuận, đề nghị khách thanh toán 100% tiền hàng (nếu được) trước khi tàu cập cảng Algeria để chủ động kiểm soát tiền hàng. Khi hàng vào cảng, nếu khách hay ngân hàng Algeria chậm thanh toán 1 tuần, doanh nghiệp cần thông báo ngay cho các cơ quan chức năng như Thương vụ để được tư vấn, hỗ trợ giải quyết kịp thời, tránh tình trạng để hàng kéo dài tại cảng dẫn tới phát sinh chi phí kho bãi, tiền phạt và hải quan sở tại bán đấu giá sung công quỹ (theo quy định, sau khi hàng nằm tại cảng 81 ngày kể từ khi được dỡ khỏi tàu, hải quan Algeria sẽ tiến hành bán đấu giá).