Trời bắt đầu mưa. Nước dùng để nấu ăn, uống thì có hai cái lu hứng nước trời mượn của chị Năm Nghĩa. Có điều, do mái lá còn mới nên chỉ một, hai ngày nắng là nước đổi màu đỏ quạch.
Những đêm trời quang, trăng lên, ánh sáng vàng óng chui thẳng vào cửa, hai ngọn đèn dầu ghen tỵ, hắt hiu. Bóng những chiếc tàu dừa rải xuống mặt liếp, lay động như chiếc lược làm duyên trên tóc con gái.
Gọi là biền, vì nó chỉ là một vạt rừng sát ven sông, chỗ rộng nhất chỉ khoảng 500 m. Cây cối chỉ là dây cóc kèn, chùm gọng; cao hơn có những cụm chà là trải dài cho tới vàm kênh xáng Thị Kẹo. Căn nhà hai gian của bộ phận Văn thư nằm trên liếp dừa, sát biền rừng, dành cho ba anh em sinh hoạt, gồm anh Tô Hiền Long (Sáu Ðồng), Nguyễn Khắc Chuẩn (Sáu Nhỏ) và tôi. Mấy tấm vạt ngủ được lót sát đất, các thùng sắt đựng tài liệu còn dùng để kê máy đánh chữ, góc còn lại là dụng cụ bếp núc. Ðơn sơ, nhưng chúng tôi cũng biết chăm chút, nào là đốn sậy bện đăng làm giàn úp chén, treo mấy cây móc trên giăng vách để máng xoong, chảo; củi khô trong vườn, bìa rừng được xếp vào góc vách gọn gàng.
Công việc văn thư thời này lúc nào cũng tất bật, nhất là những lần phục vụ cho hội nghị Tỉnh uỷ mở rộng, không có dụng cụ in ấn, số lượng tài liệu nhiều phải đánh đi đánh lại đến ba, bốn lượt. Công văn, thư từ thường kèm theo hai từ “hoả tốc”. Ðiểm nhấn có lẽ là lúc Phạm Thạnh Trị (Bảy Trị) và Tô Minh Thứa (Ba Ðức) từ Trường Ninh Bình về. Có được hai sinh lực mới, căn chòi thêm đông vui, bỗng dưng tôi được tôn lên thành “người lớn”.
Ðoàn cán bộ chờ chuyến sang sông chiến lược – Sông Ðốc. Ảnh tư liệu: VÕ AN KHÁNH
Tội cho Trị và Ðức, vì không có máy đánh chữ để tập, nên mỗi lần tôi và anh Sáu Nhỏ bỏ máy ra là nhào vô tập lấy tập để. Ðức tập trên máy Rơ-ming-ton to đùng của anh Sáu Nhỏ, Trị tập ở máy Tippa của tôi. Chiếc máy nhỏ, gọn, nặng chừng hơn 3 kg, là chiến lợi phẩm trong một cuộc ta đột nhập cơ quan Hội đồng xã trên tuyến Hưng Mỹ – Cái Nước. Ðã 60 năm, máy vẫn còn lưu giữ ở Bảo tàng tỉnh.
Ðể mau thành thục, Trị và Ðức có sáng kiến vẽ bàn phím vào bìa cứng, chia vị trí cho từng ngón tay, cứ gõ vào đó theo lời một bài hát hoặc bài thơ được nhẩm trong đầu. Không lâu, hai chàng trai trẻ đã thành thạo, ngồi sắp bằng trước máy, sản phẩm đầu tiên là những thư từ, công văn ngắn. Về sau, Trị là một tay đánh máy giỏi, không cần nhìn vào bàn phím, mắt dán vào trang tài liệu hoặc bản thảo, khi hết dòng chuông báo, đưa tay gạt càng, cứ vậy mà gõ tới, có lúc còn hát vu vơ.
Các sản vật không thể so sánh với rừng sâu như Cái Nháp, Xẻo Cùi nhưng biền sông này dường như thích hợp với chồn cáo cộc và kỳ đà. Tới mùa động đực, bầy chồn cáo cộc gầm rú suốt đêm, ngay sát cửa chòi; sáng ra, lần theo đường đi của chúng đã thấy nhẫm dấu.
Có lần gài bẫy bắt được con chồn cáo cộc to tướng, phân công Phạm Thạnh Trị và Tô Minh Ðức đem ra chợ Rạch Bần bán, nhưng ở cái chợ nhỏ đó không ai buồn hỏi mua. Trước đó, chúng tôi cũng vây bắt được con kỳ đà từ đâu chạy xuống ao cạn sát vách. Vậy là, chuyện bắt được con kỳ đà vừa mới dứt đến chuyện chồn cáo cộc đã trở thành một mạch chuyện vui, nhớ hoài.
Góp mặt ở Văn phòng Tỉnh uỷ từ cuối năm 1960 đến cuối năm 1967, tôi không nhớ mình đã chuyển đến bao nhiêu địa điểm, nào là Mỹ Thành, Mà Ca, Cây Me, Xẻo Ðước (Phú Mỹ); sau vườn nhà anh Tám Háp, Ba Hối, Tư Khương, Hai Thi và Hai Hạng ở Rẫy Mới bên bờ Bắc đầm Thị Tường; Công Ðiền, Chà Là bên bờ Nam sông Ông Ðốc (Phong Lạc); cũng có lần ở Chủ Mía (Khánh Hưng).
Ðầu tháng 3/1962, có cuộc hành quân ngót trăm cây số bằng đôi chân, điểm xuất phát là Khâu Bè (Phú Thuận – Cái Nước), điểm đến là Tân Bình (Tân Ðức – Ðầm Dơi). Người chỉ huy trong cuộc hành quân này là bác Tám Sấn, Thường vụ Tỉnh uỷ; kế đó là anh Nghê Trường Sinh (Hai Sinh), Chánh Văn phòng, cùng cuốc bộ với đám lính trẻ. Dụng cụ văn phòng như máy đánh chữ, giấy pơ-luy, giấy than; bộ phận hiệu thính có máy vô tuyến điện đều nằm gọn trong bồng bột, lúc cõng trên lưng, lúc nằm trên vai. Ngày ém quân, đêm đi, qua 3 đêm cũng tới đích. Sau thời gian dài quanh quẩn trong căn chòi rộng chừng 20 mét vuông, đủ cho mấy anh em ăn, ngủ, làm việc dưới tán dừa, giờ được dã ngoại, mang vác, cuốc bộ thấm đẫm sương đêm và mồ hôi. Ðôi dép có lúc là trợ thủ cho bàn chân, cũng có lúc “lên ngôi” treo lủng lẳng trên bồng bột.
Vùng đất hoang hoá ở Dọc Kỳ Ðà, cặp lộ xe Rau Dừa – Cái Nước, chỉ có từng chùm ráng và cỏ lông tượng, váng một lớp bùn mỏng. Từng đàn cá phi chạy ngời ngời, hốt hoảng cắm đầu xuống ổ gà, cái đuôi còn lú lên mặt nước ngoáy lia lịa. Không bỏ lỡ cơ hội, chúng tôi bẻ cọng ráng, lựa cá lớn xỏ được mấy xâu. Ðến nơi ém quân, các thím, các chị trong nhà giúp chúng tôi có nồi canh chua và chảo cá kho sả ớt thơm lừng.
Sáng 8/3/1962, vừa đặt chân đến Cây Gừa (Tân Tiến) thì địch cho 40 trực thăng, chủ yếu là “sâu rọm”, có máy bay ném bom yểm trợ, đổ quân xuống một số điểm ở Thanh Tùng, mở màn cho chiến dịch “Bình Tây”, nơi mà lúc nửa đêm chúng tôi vừa đi ngang qua đó. Do sát vòng quần đảo của các loại máy bay, nên bác Tám Sấn ra lệnh: “Ðồ đạc, tài liệu văn phòng chôn cất kỹ lưỡng, các tổ bám công sự sẵn sàng chiến đấu”. Thật là may, nếu như ngày này chúng tôi còn ém quân ở Thanh Tùng thì điều gì sẽ xảy ra?
Chúng tôi ở trong căn nhà ấm áp của Bác Ngọ, cựu binh Nam tiến năm 1946 ở Tân Bình. Ông có nếp uống rượu trong bữa ăn, mỗi lần chỉ hơn nửa ly bầu; rượu nếp, bọt đóng vành, gia đình tự nấu. Khi vui miệng, ông ngân nga 4 câu thơ không biết xuất xứ từ đâu như để biện minh cho sự uống rượu của mình:
“Vua Ngô năm, bảy tà vàng
Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì
Chúa trộm uống rượu tỳ tỳ
Thác xuống âm phủ chẳng khác gì vua Ngô”.
Còn nhớ, trước chuyến đi này, tháng 5/1961, Văn phòng Tỉnh uỷ đã vượt qua sông Ông Ðốc đến kênh Ba Tên, giáp Chín Bộ (Khánh Bình Tây cũ). Sau đó, đầu tháng 12/1962, lại xuống rạch Cây Thơ (Năm Căn), thì ngày 8/12/1962, bên kia sông Bảy Háp địch dùng chiến thuật “Phượng hoàng bay” cho 50 trực thăng CH47 đổ quân xuống Mang Rổ (Tân Hưng Tây). Nguyễn Việt Khái đã bắn 8 phát carbin hạ 4 trực thăng, diệt 60 tên địch và trở thành Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân. Tháng 11/1967, một bộ phận của Văn phòng đi phục vụ Hội nghị Tỉnh uỷ mở rộng ở rạch Bù Mắt, Ðoàn Nghĩa Hiệp (Năm Nhựt) đã dính bom, hy sinh.
Khi ở Mà Ca (Phú Mỹ) sau nhà cô Chín Dơn, biết đêm 9/9/1963, cùng lúc ta tiến công 2 chi khu Cái Nước và Ðầm Dơi, cánh Văn phòng mua mấy chai la ve hiệu trái khóm và hộp sữa bò để cùng thức ăn mừng chiến thắng. Cũng tại đây, trong trận ta tập kích cứ điểm Giá Ngựa – Chà Là, lần đầu tiên biết thế nào là lính nhảy dù, thế nào là những chiếc dù chiến lợi phẩm đủ màu sắc, rộng bằng hai căn nhà, được xẻ ra làm chăn đắp và dây giăng võng.
Lúc đang ở sau vườn của chú Ba Hối, gần đầu Kinh Ba (Ðất Cháy – Phong Lạc), nửa đêm, bộ phận mã thám phát hiện địch đổ quân, cơ quan phải nhanh chóng dời đi. Thu dọn đồ đạc, xoá dấu vết, xuống vừa đến nơi ở mới thì trời rạng sáng.
Có một chi tiết thú vị, nếu như ở Rẫy Mới sát rừng Mỹ Bình (Phong Lạc cũ), năm 1959, anh Nguyễn Phong Triều (Út Triều), nguyên Chánh Văn phòng Tỉnh uỷ, dự thảo lời hiệu triệu kêu gọi Nhân dân vùng lên thực hiện đồng khởi năm 1960(*) thì 16 năm sau ở Xẻo Ðước, chỉ cách Rẫy Mới không đầy 10 km, cùng chung ngọn nguồn của đầm Thị Tường, anh Hoàng Minh Nhất (Ba Ngởi), nguyên Chánh Văn phòng Tỉnh uỷ, cùng tập thể Văn phòng Tỉnh uỷ thần tốc xốc tới, hoàn thành sứ mệnh tham mưu, giúp việc cho Tỉnh uỷ cùng quân và dân giải phóng tỉnh nhà vào 7 giờ ngày 1/5/1975, kết thúc cuộc trường chinh 30 năm đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Cứ gọi số tròn là 60 năm, 4 người hy sinh của Văn phòng đã được Tổ quốc ghi công, những người chết vì già yếu, bệnh tật đã mồ yên mả đẹp. Năm ba anh em còn sống đã vào tuổi “xưa nay hiếm”, mặc dù địa vị chính trị, xã hội có khác nhau nhưng vẫn không thôi nhớ về những năm tháng ấy.
Sáu mươi năm biết bao biến đổi. Ðất và người những nơi ấy không ngừng khoác lên mình chiếc áo mới, ụ châu mai còn sót lại sau chiến tranh ở sát cổng vào Tỉnh uỷ bao lần thay lớp rêu phong. Chuyện kể đôi lúc phải dừng bút để mà thương nhớ, ngậm ngùiu
(*) Lời hiệu triệu: “… Hỡi đồng bào và chiến sĩ. Tất cả hãy đứng lên, sắm sửa vũ khí, lấy súng địch mà đánh địch. Hãy trừ khử bọn ác ôn, đuổi giặc, giành lại xóm làng…”. Nguồn từ “30 năm kháng chiến của quân và dân Cà Mau 1945-1975″, Nguyễn Văn Ðẩu, nguyên Tỉnh uỷ viên, Giám đốc Sở Văn hoá – Thông tin Minh Hải.
Nguyễn Thái Thuận