– Kính thưa Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đoàn Minh Huấn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy !
– Kính thưa Tiến sỹ Phan Chí Hiếu, Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH VN !
– Kính thưa các đồng chí Lãnh đạo Bộ, ngành TW và địa phương!
– Kính thưa các chuyên gia, các nhà khoa học, học giả trong nước và quốc tế !
– Kính thưa toàn thể Hội thảo !
Thực hiện kế hoạch số 111 ngày 07/7/2023 của UBND tỉnh về tổ chức Hội thảo khoa học “Định dạng bản sắc Ninh Bình gắn với xây dựng thương hiệu địa phương” nhằm đánh giá, định dạng, xác định được các giá trị bản sắc riêng có của tỉnh Ninh Bình làm cơ sở lựa chọn, quy chuẩn các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, thương hiệu mang giá trị độc đáo, khác biệt của địa phương có tầm ảnh hưởng vùng, quốc gia và quốc tế; đồng thời, tham vấn ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, các đối tác nhằm xây dựng thương hiệu địa phương, nâng tầm vị thế và giá trị tổng hợp của vùng đất, văn hóa – lịch sử, con người Ninh Bình. Qua đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp, cơ chế chính sách đặc thù, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của tỉnh Ninh Bình trong bối cảnh mới.
Thay mặt các đồng chí lãnh đạo tỉnh Ninh Bình, tôi nhiệt liệt chào mừng và kính chúc các đồng chí lãnh đạo các Bộ, Ban, ngành Trung ương; lãnh đạo các địa phương; các chuyên gia, nhà khoa học, học giả trong nước và quốc tế, cùng toàn thể các vị đại biểu, khách quý sức khỏe, hạnh phúc! Chúc Hội thảo thành công, đạt được nhiều kết quả tốt đẹp!
Kính thưa các vị đại biểu!
Trong sự tiếp nối vấn đề bản sắc, thì “bản sắc địa phương” là những giá trị cốt lõi, những đặc trưng nổi trội và đặc sắc của địa phương, mà có thể cảm nhận được rõ ràng, giúp nhận diện một địa phương và phân biệt nơi này với nơi khác; trong đó, một phần có nguồn gốc tự nhiên, còn phần lớn là do con người ở đó tạo ra trong quá trình sinh sống, lao động và phát triển. Đó là những nét đặc trưng phản ánh cốt cách tinh thần của cộng đồng dân cư tại một vùng miền xác định, được nhận biết thông qua cách thức họ tổ chức cuộc sống (cư trú, sinh hoạt, lao động sản xuất) và ứng xử với những điều kiện tự nhiên và văn hóa – xã hội cụ thể của địa phương.
Trong sự phát triển của bối cảnh mới, vị thế của đất nước, của địa phương, thì các yếu tố về giá trị văn hóa, giá trị thương hiệu đã và đang trở thành nguồn lực, động lực quan trọng để phát triển nhanh và bền vững. Sức mạnh cội nguồn văn hóa, cùng với nhân tố văn hóa trong kinh tế được định diện là một trong ba trụ cột phát triển của đất nước, của địa phương. Văn hóa được coi là “hồn cốt của dân tộc, nói lên bản sắc của dân tộc”, đồng thời là “sức mạnh mềm” góp phần củng cố vị thế, năng lực của đất nước và địa phương.
Trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay, mỗi địa phương ngày càng phải gia tăng sự quan tâm cạnh tranh với các địa phương khác trong việc thu hút đầu tư, nguồn nhân lực, khách du lịch và sự danh tiếng… Môi trường cạnh tranh là một thực tế và cái cách mà các địa phương nỗ lực tạo dựng và quảng bá được những đặc tính khác biệt của địa phương mình chính là yếu tố quyết định sự thành công hay bị tụt hậu. Một địa phương có thương hiệu – rõ ràng, hấp dẫn và độc đáo – là nền tảng để biến một địa phương trở thành nơi thu hút đầu tư, điểm đến du lịch và một nơi sống lý tưởng.
Xây dựng và phát triển thương hiệu địa phương là xây dựng và phát triển một bản sắc riêng cho địa phương; không chỉ đơn giản là một chiến lược truyền thông, một khẩu hiệu, một vài hình ảnh hoặc một biểu tượng (logo) cho địa phương, mà bao gồm nhiều, rất nhiều điều hơn thế, đó là giá trị vô hình mang nhận thức tích cực về một địa phương. Đó là một quá trình mang tính chiến lược để phát triển một tầm nhìn dài hạn cho một địa phương, với mục tiêu gắn kết và hấp dẫn các đối tượng liên quan góp phần chi phối và định hình nhận thức tích cực về một địa phương.
Thương hiệu địa phương có giá trị, mang lại nhiều lợi ích, không chỉ cho địa phương và công dân địa phương đó, mà còn cho tất cả các bên liên quan. Vì vậy, chính quyền địa phương, tổ chức và người dân cần nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu điểm đến, khai thác điểm mạnh và có những chiến lược phát triển thích hợp nhằm nâng cao vị thế của địa phương trong lòng công chúng trong và ngoài nước. Do vậy, xây dựng và phát triển thương hiệu địa phương là xu thế tất yếu và là một quá trình lâu dài, bền bỉ, nhất quán và đòi hỏi nhận thức cao nhất của chính quyền địa phương, cùng sự quan tâm, đồng hành của nhiều bên đối tác liên quan. Để khởi đầu cho quá trình trên, trước hết, địa phương xác định rõ một số nội dung trọng tâm sau:
– Cái gì làm cho địa phương trở nên độc đáo, có giá trị riêng biệt so với các địa phương khác và có sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư, khách hàng thuộc các nhóm đối tượng khác nhau?
– Trong thời gian tới của địa phương nên và có thể làm gì và làm thế nào để biến định vị mới này thành thực tiễn?
– Vai trò của các bên liên quan và các nhóm đối tượng trong cộng đồng có thể đưa thương hiệu vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội và đo lường hiệu quả của chiến lược xây dựng thương hiệu?
Kính thưa toàn thể Hội thảo !
Tỉnh Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội khoảng gần 100km, có vị trí địa lý quan trọng, chiến lược, lợi thế cạnh tranh riêng có: Là “Cửa ngõ” phía Nam khu vực miền Bắc, cũng là “Cửa ngõ phía Nam của Nền văn minh sông Hồng”; thuộc hành lang kinh tế quốc gia Bắc – Nam; hành lang kinh tế ven biển Vịnh Bắc Bộ từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Kim Sơn (Ninh Bình); điểm kết nối, giao thoa, chuyển tiếp của 3 vùng kinh tế: Vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, Vùng rừng núi Tây Bắc và Vùng duyên hải Bắc Trung Bộ.
Trong những năm qua, Trung ương và tỉnh Ninh Bình đã và đang chú trọng, quan tâm đầu tư phát triển hệ thống kết cấu giao thông đồng bộ, phục vụ và thúc đẩy quá trình kết nối vùng, liên vùng, như: Đường Quốc lộ 1A, Tuyến đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông; tuyến đường bộ ven biển từ Quảng Ninh đến Nghệ An; tuyến đường bộ cao tốc Hải Phòng – Ninh Bình; hệ thống đường nội tỉnh kết nối các vùng trong tỉnh với nhau và kết nối với các trục đường của quốc gia… Thời gian di chuyển kết nối bằng đường bộ từ Ninh Bình đến Hà Nội khoảng 1 giờ đồng hồ; đến Hải Phòng chỉ khoảng 2 giờ và đến Quảng Ninh chưa đến 3 giờ. Đây cũng là điều kiện thuận lợi về vận tải, thông thương với các tỉnh trong cả nước và quốc tế, tạo lợi thế để phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp, du lịch, dịch vụ, lưu thông hàng hóa, giao lưu văn hóa…
– Ninh Bình có diện tích tự nhiên gần 1.412 km2; với địa hình phần thành 3 vùng sinh thái rõ rệt được ví như một Việt Nam thu nhỏ (gồm: vùng núi phía Tây; vùng đồng bằng xen kẽ với núi đá vôi; vùng đồng bằng, bãi bồi ven biển); có những giá trị riêng có về sinh thái tự nhiên, lịch sử và văn hóa, cùng truyền thống cách mạng hào hùng.
Hơn 30 nghìn năm trước, Ninh Bình là nơi được người tiền sử chọn làm địa bàn tụ cư, sinh sống. Thế kỷ thứ X, Hoa Lư được chọn làm quốc đô của Nhà nước Đại Cồ Việt – Nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Đến nay, nơi đây còn lưu giữ được đậm đặc trầm tích lịch sử và dấu ấn văn hóa đặc sắc, cùng vẻ đẹp độc đáo của kiến trúc tự nhiên đã tạo nên những giá trị độc đáo nổi bật toàn cầu Quần thể Danh thắng Tràng An, được UNESCO ghi danh là Di sản hỗn hợp Văn hóa và Thiên nhiên thế giới vào năm 2014, đưa Ninh Bình là một trong 3 địa phương Vùng đồng bằng sông Hồng, một trong 8 tỉnh, thành phố trong cả nước có Di sản thế giới và là Di sản kép duy nhất của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á; được Tổng Giám đốc UNESCO ghi nhận là là mô hình mẫu mực, điển hình trên thế giới về phát huy các giá trị toàn cầu của Di sản Thế giới, kết hợp hài hòa giữa việc gìn giữ môi trường, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống với phát triển kinh tế du lịch, đảm bảo lợi ích của người dân, Nhà nước và doanh nghiệp.
Toàn tỉnh có gần 2.000 di sản văn hóa vật thể (với 81 di tích xếp hạng cấp quốc gia, 3 di tích xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt, 5 bảo vật quốc gia và 314 di tích xếp hạng cấp tỉnh) và gần 500 di sản văn hóa phi vật thể (trong đó có 04 di sản đã được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia), phản ánh tương đối toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của người Ninh Bình nói riêng, người Việt Nam nói chung từ xưa đến nay.
Bên cạnh đó, còn có nhiều cảnh quan thiên nhiên, vùng sinh thái phong phú, đặc sắc, như: Khu Bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long – Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước lớn nhất đồng bằng Bắc Bộ; Vườn quốc gia Cúc Phương, được Tổ chức giải thưởng Du lịch Thế giới (World Travel Awards) bầu chọn và vinh danh là Vườn quốc gia hàng đầu châu Á trong 5 năm liên tiếp vừa qua; Nhà thờ đá Phát Diệm…
– Hiện nay trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có 77 làng nghề, so với Hà Nội và một số tỉnh trong khu vực, thì số lượng và quy mô làng nghề của tỉnh Ninh Bình còn tương đối nhỏ bé. Tuy nhiên, các làng nghề truyền thống của tỉnh Ninh Bình sở hữu bề dày lịch sử – văn hóa, giá trị đặc sắc, có truyền thống lịch sử hàng trăm năm, hội tụ đầy đủ các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, mang đậm “hơi thở” quê hương gắn với đời sống cộng đồng dân cư; trải qua nhiều thăng trầm, biến chuyển, nhưng nét đẹp không gian văn hóa trong các làng nghề truyền thống vẫn được các thế hệ người dân gìn giữ, phát huy trong đời sống hôm nay.
Nổi bật như: Gốm sứ Bồ Bát là khởi tổ của gốm sứ Bát Tràng – Hà Nội; Thêu ren Văn Lâm – Ninh Hải có truyền thống trên 700 năm; Làng nghề đá mỹ nghệ Ninh Vân – Hoa Lư… Các làng nghề truyền thống vừa là nơi lưu giữ, tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống, vừa là những cơ sở kinh tế quan trọng tạo điều kiện phát triển du lịch, góp phần quảng bá tinh hoa làng nghề, tạo thêm nguồn thu cho địa phương.
– Cùng với những giá trị văn hóa, lịch sử, cư dân Ninh Bình qua nhiều thế hệ đã sáng tạo, lưu truyền, lan tỏa nhiều giá trị văn hóa đặc sắc, tạo nên cốt cách riêng của con người vùng đất Cố đô Hoa Lư “thân thiện, hiền hòa, thanh lịch, mến khách” vừa mang đầy đủ đặc trưng của con người Việt Nam được xác định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đó là “yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”; hướng tới chuẩn mực con người văn minh, hiện đại, trí tuệ, bản lĩnh, tự tin, đột phá, dám nghĩ, dám làm, có ý chí vươn lên mạnh mẽ thích ứng nhanh với điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
Kính thưa các đồng chí !
Kính thưa các vị đại biểu, khách quý !
Qua hơn 30 năm tái lập tỉnh, Đảng bộ, chính quyền, quân và nhân dân tỉnh Ninh Bình, với ý chí và khát vọng vươn lên, đã luôn đoàn kết, chủ động, sáng tạo, phát huy tiềm năng, lợi thế, vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Từ một tỉnh kinh tế thuần nông (chiếm gần 63% GRDP), quy mô nhỏ và tốc độ tăng trưởng chậm, chưa vững chắc và mang nặng tính chất tự cung, tự cấp với nền nông nghiệp lạc hậu; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhỏ lẻ, phát triển manh mún; thương mại, dịch vụ chậm phát triển.
– Với bước đi đúng đắn, tỉnh Ninh Bình đã tận dụng khai thác phát huy hiệu quả tiềm năng, thế mạnh; đặc biệt là xác định và quyết tâm thực hiện những bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng quan trọng, chuyển dịch cơ cấu trong nội tại ngành kinh tế theo hướng xanh, ứng dụng khoa học công nghệ và tạo ra giá trị lớn; chú trọng quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và giải pháp về thu hút, xúc tiến đầu tư nhằm thu hút những nhà đầu tư chiến lược, các dự án lớn có đóng góp lớn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của địa phương. Kinh tế liên tục duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao qua các thời kỳ, giai đoạn 2016-2020 đạt gần 8,9%/năm; giai đoạn 2020-2022, mặc dù chịu tác động nặng nề của dịch Covid-19, nhưng Ninh Bình vẫn thuộc nhóm các tỉnh đạt tăng trưởng dương; 6 tháng đầu năm 2023, tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,56%, đứng thứ 12 toàn quốc và đứng thứ 6 vùng đồng bằng sông Hồng.
Quy mô nền kinh tế của tỉnh không ngừng mở rộng, đến hết năm 2022, GRDP của tỉnh đạt gần 3,5 tỷ USD, đứng thứ 37/63 tỉnh thành phố trong cả nước, gấp gần 120 lần so với năm 1992, GRDP bình quân đầu người gấp 110 lần so với năm 1992.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng cơ cấu công nghiệp, dịch vụ và giảm cơ cấu nông – lâm – thủy sản nhưng vẫn tăng về mặt quy mô giá trị; đến hết năm 2022, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ chiếm gần 90% GRDP. Năm 2022 đã trở thành tỉnh tự cân đối ngân sách với số thu đạt trên 24.301 tỷ đồng, gấp gần 611 lần so với năm 1992.
– Nền kinh tế của tỉnh đã hình thành được một số ngành, sản phẩm chủ lực có thương hiệu và đóng góp lớn cho tăng trưởng, phát triển kinh tế và thu ngân sách, nổi bật như:
+ Công nghiệp lắp ráp ô tô, công nghiệp phụ trợ ô tô với đầu tàu liên doanh giữa Tập đoàn Hyunđai với Tập đoàn Thành Công, đưa Ninh Bình cùng với tỉnh Quảng Nam và thành phố Hải Phòng trở thành ba trung tâm sản xuất ô tô lớn nhất cả nước.
+ Du lịch đã nhận diện được tiềm năng, thế mạnh riêng nổi trội, đặc biệt là trong lĩnh vực du lịch văn hóa, tâm linh và sinh thái nghỉ dưỡng; từng bước xây dựng cơ chế chính sách để phát triển du lịch nhanh và hiệu quả gắn với Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới Quần thể danh thắng Tràng An, văn hóa và con người vùng đất Cô đô Hoa Lư… Ninh Bình trở thành điểm sáng trên bản đồ du lịch Việt Nam và thế giới, trong nhóm 15 điểm đến hàng đầu thế giới, thuộc 10 tỉnh, thành phố có lượng khách đến cao nhất cả nước gắn với các địa danh và sản phẩm du lịch đặc sắc. Đặc biệt, tại giải thưởng thường niên về du lịch của Booking.com, Ninh Bình là địa phương duy nhất của châu Á góp mặt và đứng thứ 7 trong danh sách 10 vùng đất thân thiện nhất thế giới năm 2023; qua đó, góp phần quảng bá hình ảnh, bản sắc văn hóa của vùng đất, con người Cố đô đến bạn bè trong nước và thế giới.
+ Nông nghiệp đã xây dựng và phát triển được 101 sản phẩm OCOP, trong đó, 68 sản phẩm hạng 4 sao trở lên, 33 sản phẩm hạng 3 sao; đây là những sản phẩm mang bản sắc, đặc trưng, đặc hữu riêng có tạo điểm nhấn, thương hiệu riêng cho từng vùng miền của tỉnh, nổi bật như: Sản phẩm tranh lá Bồ Đề; gốm sứ Bồ Bát; thêu ren Văn Lâm; các sản phẩm chế biến từ sản phẩm nông, lâm nghiệp, thủy sản,… Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao, doanh nghiệp gắn liền với mảnh đất lịch sử Tam Điệp – Biện Sơn, đã xây dựng, phát triển và trở thành nhà cung cấp nông sản, chế biến hàng đầu Việt Nam, có các sản phẩm xuất khẩu vào 50 quốc gia và vùng lãnh thổ hàng đầu trên thế giới như: Mỹ, Nhật Bản, EU, Israel,… thực hiện thành công chiến lược “đưa nông sản Việt Nam vươn ra thị trường thế giới”, giúp Công ty trở thành thương hiệu hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu rau, quả không chỉ ở thị trường nội địa mà cả thị trường quốc tế.
– Bên cạnh những thành tựu vượt bậc trong lĩnh vực kinh tế, công tác đảm bảo an sinh xã hội được chú trọng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao, thu nhập bình quân đầu người năm 2022 đạt cao hơn bình quân chung của cả nước, gấp 19 lần so với năm 2002; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều) đến hết năm 2022 lần lượt là 2,36% và 2,81%.
Lĩnh vực y tế được tập trung đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Giáo dục – đào tạo được quan tâm, chú trọng phát triển toàn diện cả quy mô và chất lượng; Ninh Bình liên tục nhiều năm liền đứng trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước về điểm trung bình các môn thi tốt nghiệp THPT. Công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số được tập trung thực hiện và đạt nhiều kết quả, các chỉ số về cải cách hành chính của tỉnh nằm trong top đầu của cả nước. Quốc phòng, quân sự địa phương được tăng cường; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; hoạt động đối ngoại mở rộng…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng thương hiệu địa phương tỉnh Ninh Bình cũng còn tồn tại một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, quy mô kinh tế khá nhỏ, đứng thứ 37/63 tỉnh, thành phố; chất lượng tăng trưởng chưa đảm bảo sự đồng đều còn phụ thuộc vào một số ít ngành chủ lực; thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ sạch tạo ra giá trị gia tăng cao còn hạn chế; thu hút lao động có trình độ chuyên môn khoa học, kỹ thuật cao còn khó khăn.
Thứ hai, cấu trúc không gian lãnh thổ chưa cân đối, vùng đô thị trung tâm chưa có điểm nhấn về kiến trúc cảnh quan và vùng Tây Bắc, Đông Nam chưa phát triển; bên cạnh đó, tính liên kết vùng, nhất là liên vùng và sự tham gia vào các chuỗi giá trị còn hạn chế; hạ tầng số tạo nền tảng cho phát triển kinh tế số, chính quyền số, xã hội số, đô thị thông minh bước đầu mới được đầu tư.
Thứ ba, ngành du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, tuy nhiên mức đóng góp vào GRDP còn thấp, chưa có nhiều sản phẩm du lịch đặc sắc, phong phú để tăng lượng khách luư trú và doanh thu du lịch.
Thứ tư, chưa có cơ chế chính sách mang tầm chiến lược với tính chất xuyên suốt, khoa học để định vị và phát triển thương hiệu địa phương; quy trình xây dựng thương hiệu và đánh giá hiệu quả, tác động lan tỏa của xây dựng thương hiệu sản phẩm hàng hóa gắn với thương hiệu địa phương chưa cụ thể, rõ ràng; nhiều thương hiệu sản phẩm hàng hóa đặc sản được đầu tư bài bản từ quy trình sản xuất đến đăng ký quyền lợi, quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu liên kết, chỉ dẫn địa lý và xúc tiến thương mại, nhưng vẫn khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường đầu ra cho sản phẩm.
Thứ năm, tỉnh Ninh Bình là tỉnh có diện tích tự nhiên nhỏ, nhưng phạm vi, diện tích vùng di sản, vùng bảo tồn và dự trữ sinh quyển chiếm một tỷ trọng tương đối lớn, trải dài trên nhiều địa phương, với quy mô dân số khá lớn. Hiện nay chưa cơ các cơ chế chính sách đặc thù, riêng có của Trung ương cũng như địa phương nhằm giải quyết mâu thuẫn, xung đột giữa bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị di sản với phát triển đô thị, giải quyết sinh kế người dân trong khu vực vùng di sản, phát triển kinh tế – xã hội của địa phương như:
– Cơ chế, chính sách đặc thù cho lựa chọn mô hình cơ cấu kinh tế phù hợp với chức năng Đô thị Di sản đủ khả năng loại trừ kiểu công nghiệp hóa cổ điển gây tổn thương cho di sản văn hóa, xung đột với bảo vệ môi trường sống; các khung tiêu chuẩn, khung pháp lý và các chính sách phù hợp với đặc trưng, vai trò và thực tiễn đối với địa phương sở hữu cả Cố đô và di sản, làm cơ sở hoạch định chiến lược quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững, đồng thời phát triển đô thị phù hợp.
– Cơ chế, chính sách đặc thù bảo đảm chuyển đổi sinh kế bền vững cho người dân trong các vùng di sản, bảo đảm vừa chuyển dịch cơ cấu lao động, vừa bảo tồn được các không gian di sản, nhất là vùng lõi di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới.
– Cơ chế, chính sách đặc thù trong huy động, phân bổ các nguồn lực đầu tư cho phát triển bền vững các đô thị di sản, từ các cơ chế, chính sách giải phóng nguồn lực đất đai, tài chính, tự nhiên đến nguồn lực con người, nguồn lực văn hóa, thúc đẩy kết nối các loại nguồn lực cho phát triển, khắc phục các mâu thuẫn, xung đột giữa yêu cầu bảo tồn và phát triển.
Kính thưa các nhà khoa học cùng quý vị đại biểu !
Định hướng phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh trong thời gian được xác định là “Phát triển nhanh và bền vững, phát triển kinh tế đi đôi với công bằng và tiến bộ xã hội; trên cơ sở phát huy tối đa tiềm năng nổi trội, giá trị độc đáo và lợi thế riêng có của địa phương, cốt lõi là lấy bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa – lịch sử, cảnh quan thiên nhiên cùng truyền thống tốt đẹp của con người, vùng đất Cố đô Hoa Lư làm nguồn lực và động lực phát triển”. Đối với ngành, lĩnh vực, công nghiệp được xác định là động lực, là nền tảng phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững; tạo nền tảng khai thác có hiệu quả và bảo vệ giá trị văn hóa – lịch sử vùng đất Cố đô Hoa Lư – Nơi lưu giữ những giá trị khởi nguyên trong hành trình phục hưng dân tộc; giá trị nội bật toàn cầu của Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới Tràng An, từng bước phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phấn đấu trở thành trung tâm du lịch lớn của cả nước và khu vực.
Theo đó, 3 khát vọng, mục tiêu tổng quát của tỉnh Ninh Bình đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được xác định như sau: (1) Là một trong những tỉnh khá, phát triển toàn diện, nhanh và bền vững của vùng Đồng bằng Sông Hồng; (2) Là một trong những trung tâm du lịch cấp quốc gia, mang tầm quốc tế; (3) Là miền đất đáng sống, an toàn và thân thiện.
Thưa các vị đại biểu, khách quý !
Trên cơ sở những giá trị nổi bật riêng có về địa lý, sinh thái tự nhiên, truyền thống và kết quả thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh trong thời gian vừa qua; trong thời gian tới, Ninh Bình cần phải làm gì và làm như thế nào để hiện thực hóa khát vọng phát triển? Đây là câu hỏi lớn, là tâm tư suy nghĩ của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Ninh Bình.
Tại Hội thảo khoa học quan trọng hôm nay, tôi xin phép gợi mở và đưa ra một số nội dung sau để các Bộ, ngành Trung ương, các nhà quản lý, nhà khoa học, học giả trong và ngoài nước, cùng các doanh nghiệp và toàn thể đại biểu cùng thảo luận, thống nhất và đề xuất các giải pháp, cơ chế chính sách đặc thù, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của tỉnh Ninh Bình trong bối cảnh mới, như sau:
Thứ nhất, cần xác định rõ vấn đề và đổi mới cách tư duy về bảo tồn và phát triển di sản địa phương
Để giải quyết nội dung trên, chúng ta cần nghiên cứu, trả lời một số câu hỏi trọng tâm, xuyên suốt trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản của địa phương như: Bảo tồn và phát huy di sản như thế nào để các giá trị di sản thực sự sống trong đời sống vật chất, tinh thần của người dân? trở thành nguồn lực, động lực cho phát triển kinh tế – xã hội địa phương, mang lại cuộc sống tốt hơn cho người dân xung quanh di sản và sự thịnh vượng cho địa phương? Mô hình và các trụ cột trong quản lý Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới tạo động lực cho phát triển bền vững? Cơ chế, chính sách đặc thù cần có trong bảo tồn và phát huy di sản, đặc biệt là trong xây dựng và phát triển “Đô thị Cố đô – Di sản”? Nguồn lực để bảo tồn di sản tiếp cận theo góc độ nào, theo hướng đa dạng, bao gồm cả góc độ tài chính, xã hội và các vấn đề khác? Cơ chế phân phối hài hòa lợi ích của các chủ thể nắm các khâu khác nhau trong quá trình bảo tồn và phát triển di sản?
Thứ hai, xây dựng Chiến lược quảng bá (marketing) địa phương gắn với định vị mới về Ninh Bình
Để tăng cường thu hút đầu tư một cách hiệu quả, đòi hỏi các địa phương phải có những cách thức và những giải pháp nhằm tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến và thu hút các nhà đầu tư; do vậy, xây dựng một chiến lược quảng bá (marketing) địa phương là yếu tố cùng cần thiết.
Để giải quyết bài toán nêu trên, tại Hội thảo khoa học hôm nay, tỉnh Ninh Bình rất mong muốn các Bộ, ngành Trung ương, các nhà quản lý, các chuyên gia, nhà khoa học làm rõ những khái niệm, chỉ ra mô hình, quy trình và thang đo để tiến tới xây dựng chiến lược quảng bá (marketing) địa phương gắn xây dựng thương hiệu địa phương, xác định định vị mới cho tỉnh Ninh Bình; trong đó, cần làm rõ một số nội dung cốt lõi như: Nhận diện hình ảnh thương hiệu hiện tại và xác định mục tiêu, định hướng phát triển định vị thương hiệu trong thời gian tới; các giải pháp để thực hiện định hướng chiến lược định vị thương hiệu; Đo lường, đánh giá kết quả thực hiện…
Thứ ba, xây dựng đô thị di sản gắn với đô thị 4.0
Trong bối cảnh tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, các quốc gia và địa phương cần nâng cao năng lực cạnh tranh bằng cách hình thành các đô thị hiện đại theo hướng thích hợp. Vì vậy, để định vị tương lai phát triển của tỉnh Ninh Bình, thì cũng cần có định hướng Chiến lược trong việc hình thành “Đô thị Cố đô – Di sản” gắn với đô thị 4.0, bởi vì: (1) Là cửa ngõ, là trung tâm để Ninh Bình kết nối với thế giới; (2) Là môi trường sống lý tưởng của các thương nhân và gia đình họ từ khắp nơi trên thế giới; (3) Với sự hỗ trợ của công nghệ các khu đô thị gắn với kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững; (4) Cho phép thí điểm mô hình chính quyền đô thị hiện đại; (5) Đây sẽ là môi trường để thử nghiệm những ý tưởng mới, sáng tạo, gắn với những xu hướng mới như: công nghệ block chain, kinh tế tri thức, kinh tế số, và kinh tế tuần hoàn. Vì vậy, rất mong Hội thảo nghiên cứu, thảo luận cho các ý tưởng, lựa chọn mô hình nào để quy hoạch, xây dựng “Đô thị Cố đô – Di sản” gắn với đô thị 4.0 trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Thứ tư, xây dựng Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa
Trong các ngành kinh tế, công nghiệp văn hóa là một ngành kinh tế trẻ và chỉ thực sự được biết đến nhiều trong vài năm trở lại đây kể từ sau khi khái niệm này được nhắc đến trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Trong đó, các lĩnh vực của công nghiệp văn hóa được kỳ vọng sẽ trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm.
Hiện nay, trong quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa, tỉnh Ninh Bình cần có hướng đi đúng để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, phát huy được lợi thế của địa phương, phù hợp với các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường; được đặt trong tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa các ngành, các khâu sáng tạo, sản xuất, phân phối, phổ biến tiêu dùng.
Đồng thời, phát triển công nghiệp văn hóa phải gắn liền với việc quảng bá hình ảnh mảnh đất, con người Ninh Bình, góp phần bảo vệ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu, hội nhập và hợp tác quốc tế.
Với quan điểm chọn việc, làm điểm, phải tạo dựng cho được một số sản phẩm công nghiệp văn hóa chủ lực để định danh, phát triển thương hiệu, có đóng góp vào tăng trưởng và tăng thu ngân sách của địa phương. Tỉnh Ninh Bình trân trọng đề nghị các Bộ, ngành Trung ương, các nhà quản lý, các nhà khoa học và các doanh nghiệp nghiên cứu, gợi mở cho Ninh Bình những giải pháp để thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau: (1) Xây dựng cơ sở dữ liệu về các ngành công nghiệp văn hóa; (2) Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong các ngành công nghiệp văn hóa; (3) Quảng bá thương hiệu địa phương cho các ngành công nghiệp văn hóa của tỉnh; (4) Tăng cường truyền thông, nâng cao nhận thức xã hội, phát triển công chúng đối với các ngành công nghiệp văn hóa; (5) Xây dựng thương hiệu địa phương cho các ngành công nghiệp văn hóa của tỉnh Ninh Bình.
Thứ năm, đổi mới phương thức huy động và phân bổ nguồn lực
Trên quan điểm về huy động tổng thể các nguồn lực, không chỉ ở góc độ nguồn lực về tài chính, tỉnh Ninh Bình cần có giải pháp, cơ chế chính sách như thế nào để có thể huy động tổng thể các nguồn lực (ngân sách nhà nước, người dân và doanh nghiệp) gắn với sử dụng hiệu quả các nguồn lực trên; với trọng tâm như sau:
– Tăng cường sự bền vững nguồn lực cho ngân sách nhà nước cả về quy mô và cơ cấu thông qua việc tiếp tục thực hiện các giải pháp tái cơ cấu lại nên kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng và các giải pháp tổng thể về thuế, phí theo quy định.
– Tăng cường hiệu quả việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính công; bảo đảm “đầu tư công dẫn dắt đầu tư”, “đầu tư công lôi kéo đầu tư xã hội”, hướng nguồn lực công đến các địa chỉ mà khu vực tư nhân không thể tham gia hoặc đồng thời góp phần hình thành các nền tảng “kích thích” sự tham gia của khu vực tư nhân qua các cơ chế tạo động lực, hỗ trợ phù hợp; phân bổ theo hướng vận dụng nguyên tắc cạnh tranh, tăng cường tính tập trung, tập trung vào những lĩnh vực tạo ra các giá trị kinh tế gắn với việc làm và nguồn thu ngân sách của tỉnh.
– Đẩy mạnh các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khơi thông nguồn lực và đẩy mạnh phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, theo định hướng thu hút đầu tư và phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân và tạo thêm dư địa cho lĩnh vưc thu ngân sách nhà nước.
Một lần nữa, xin được kính chúc toàn thể các đồng chí, các đại biểu, khách quý sức khỏe, hạnh phúc và thành công ! Xin trân trọng cảm ơn!
* Khai mạc Hội thảo “Định dạng bản sắc Ninh Bình gắn với xây dựng thương hiệu địa phương”
* Hội thảo Khoa học “Định dạng bản sắc Ninh Bình gắn với xây dựng thương hiệu địa phương”: Phiên thứ nhất phần báo cáo chung và báo cáo chuyên đề