Thủy lợi-Đòn bẩy cho phát triển nông nghiệp
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng người nông dân và coi phát triển nông nghiệp là một tất yếu khách quan, là cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác. Người đã từng nói “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu, nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”, đồng thời khẳng định “Phải phát triển nông nghiệp một cách toàn diện”.
Tại Ninh Bình, ngày 15/3/1959 Bác đã về động viên, khích lệ đào mương, dẫn nước chống hạn trên cánh đồng Chằm, xã Khánh Cư, huyện Yên Khánh. Trên đường từ xã Khánh Cư về thị xã Ninh Bình, Bác còn xuống tát nước cùng với bà con nông dân xã Ninh Sơn ở chân núi Cánh Diều (nay thuộc thành phố Ninh Bình). Bác Hồ đã căn dặn bà con nông dân: “Nước phải đủ, phân phải nhiều/Cày sâu, giống tốt, cấy đều dảnh hơn/Trừ sâu, diệt chuột chớ quên/Cải tiến nông cụ, là nền nhà nông/Ruộng nương quản lý ra công/Tám điều đầy đủ, thóc bông đầy bồ”. Lấy lời dạy của Bác Hồ làm kim chỉ nam, ngành Nông nghiệp Ninh Bình đã kiên trì áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả và thân thiện với môi trường.
Đồng chí Đinh Văn Khiêm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT cho biết: Thấm nhuần và khắc ghi sâu sắc lời dạy của Bác, 65 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, ngành Nông nghiệp Ninh Bình đã có nhiều nỗ lực, không ngừng phát huy sức mạnh đoàn kết, sáng tạo để tham mưu đầu tư phát triển ngành thủy lợi, thực sự là đòn bẩy cho sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh.
Với địa hình của tỉnh đa dạng vùng miền, miền (miền núi, bán sơn địa, vùng chiêm trũng, vùng đồng bằng và vùng ven biển) lại có hệ thống sông ngòi dày đặc, đan xen với chế độ thủy thế phức tạp, nên nếu không thực hiện tốt công tác thủy lợi khó có thể chủ động ứng phó với các điều kiện thời tiết bất thường. Xác định thủy lợi là đòn bẩy phát triển kinh tế nông nghiệp; thực hiện lời căn dặn của Bác: “…phải thắng thiên tai, hạn hán, bão lụt để sản xuất ngày càng được nhiều, đem lại hạnh phúc cho nhân dân”, trong nhiều năm qua, ngành Nông nghiệp tỉnh đã tích cực, chủ động tham mưu cho tỉnh quan tâm đầu tư cho lĩnh vực thủy lợi một cách bài bản, khoa học mang tính chiến lược lâu dài.
Theo đó, ngoài việc phát động các phong trào làm thủy lợi nội đồng để đảm bảo tưới tiêu cho sản xuất, tỉnh đã huy động các nguồn lực đầu tư nâng cấp các tuyến đê, công trình thủy lợi trọng điểm. Trong nhiều năm qua, Trung ương, tỉnh quan tâm đầu tư hàng nghìn tỷ đồng để xây dựng, nâng cấp các công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh, như các tuyến đê biển, đê sông, đập tràn, các trạm bơm, các âu…. Đến nay, tỉnh ta đã xây dựng được hệ thống cơ sở hạ tầng thủy lợi kiên cố, hiện đại, với tổng chiều dài các tuyến đê trên 424 km. Trong đó có 1 tuyến đê cấp II, 8 tuyến đê cấp III, 5 tuyến đê cấp IV và 20 tuyến đê cấp V, đi qua 8 huyện, thành phố. Toàn tỉnh có 46 hồ, đập, với tổng dung tích trên 43 triệu m3 , đảm bảo tưới, tưới, tiêu cho trên 8.575 ha đất canh tác.
Cơ sở hạ tầng thủy lợi, phòng chống lụt bão được đầu tư xây dựng không chỉ tạo thêm sức mạnh, nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai mà còn đáp ứng cơ bản yêu cầu đa mục tiêu, đó là: phục vụ sản xuất, phòng chống thiên tai, phục vụ dân sinh, kết hợp giao thông và đảm bảo an ninh, quốc phòng. Minh chứng rõ nét cho hệ thống thủy lợi của Ninh Bình là đã trải qua, vượt qua các trận lũ lịch sử năm 2017 và mới đây là trận lũ xảy ra vào tháng 9 năm 2024.
Từ canh tác truyền thống đến nông nghiệp thông minh
Đồng chí Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Đinh Văn Khiêm cho biết: Thực hiện lời dạy của Bác đối với lĩnh vực sản xuất, đặc biệt là sản xuất lúa, ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, Ninh Bình đã đưa các giống lúa mới vào sản xuất như giống chân trâu lùn, giống tép Hải Phòng… Cùng với đó, tỉnh đẩy mạnh phong trào làm phân chuồng, phân xanh, bèo hoa dâu… Từ phong trào đã đưa năng suất lúa của tỉnh không ngừng được cải thiện, tăng cao, từ 2 tấn/ha lên 5 tấn/ha/vụ.
Không dừng lại ở đó, vào những năm 1980, Ninh Bình đã mạnh dạn đưa các giống lúa lai năng suất cao vào sản xuất, như các giống dòng Nhị ưu, Bắc ưu. Đồng thời áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất đã đẩy năng suất lúa lên tới 7-8 tấn/ha/vụ, góp phần cùng với cả nước đưa nước ta vượt qua thời kỳ thiếu lương thực và trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Với sự phát triển của khoa học công nghệ và sự phát triển của kinh tế-xã hội, tư duy làm nông nghiệp của tỉnh cũng thay đổi theo thời gian. Ninh Bình đã chuyển đổi từ canh tác lúa lai sang lúa thuần, lúa đặc sản chất lượng cao. Đưa các giống Bắc thơm số 7, LT2, các dòng tám, nếp dự vào sản xuất; đến nay, các giống đặc sản chất lượng cao đã chiếm tới 80% cơ cấu. Cùng với đó là thực hiện dồn điền, đổi thửa, cải tạo bờ vùng, tận dụng phụ phẩm, sử dụng phân bón hữu cơ, đưa cơ giới hóa vào sản xuất và sản xuất theo chuỗi giá trị, góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp Ninh Bình ổn định và bền vững.
Ngoài cây lương thực, các loại cây rau màu, cây ăn quả cũng phát triển mạnh, đã hình thành lên những vùng chuyên canh hàng hóa có giá trị kinh tế cao. Chăn nuôi cũng phát triển ổn định và trở thành ngành nghề sản xuất chính, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, tạo ra sản phẩm hàng hóa, nâng cao thu nhập cho nông dân. Sản xuất nông-lâm nghiệp đã làm thay đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi; đã chuyển dần từ tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hóa, ngành nghề nông-lâm nghiệp ngày càng phát triển, mở rộng, đời sống người dân được nâng lên đáng kể.
Đồng chí Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Đinh Văn Khiêm cho biết thêm: Những thành tựu đạt được đã khẳng định vị thế của nông nghiệp Ninh Bình. Tuy nhiên, trước thách thức của điều kiện biến đổi khí hậu cùng với định hướng phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, ngành Nông nghiệp của tỉnh cần tiếp tục thay đổi mạnh mẽ tư duy hơn nữa. Trong đó, đối với lĩnh vực thủy lợi cần tập trung nâng cấp hệ thống đê, từng bước xóa bỏ vùng phân lũ, chậm lũ của Nho Quan và Gia Viễn, tạo tiền đề phát triển kinh tế-xã hội của vùng này. Đầu tư hệ thống các công trình thủy lợi đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh, đặc biệt là tiêu úng theo hướng không chỉ cho sản xuất nông nghiệp mà cho cả vùng dân cư, khu đô thị, cụm khu công nghiệp. Song song với đó tiếp tục đầu tư cải tạo hệ thống thủy lợi nội đồng đáp ứng sản xuất canh tác giảm phát thải, hướng tới trao đổi tín chỉ cacbon trong sản xuất nông nghiệp.
Đối với sản xuất nông nghiệp, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, chuyển đổi số trong nông nghiệp, từ đó nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và tạo ra giá trị gia tăng. Bên cạnh đó, quy hoạch vùng sản xuất năng suất, chất lượng cao, đặc biệt là vùng lúa, đầu tư hỗ trợ sản xuất theo hướng hữu cơ và canh tác lúa giảm phát thải. Phát triển các sản phẩm chủ lực, sản phẩm đặc sản của tỉnh theo hướng hữu cơ, tuần hoàn đa giá trị phù hợp với 5 tiểu vùng kinh tế sinh thái của tỉnh, trong đó đặc biệt ưu tiên các sản phẩm đặc sản, sản phẩm OCOP của tỉnh, phục vụ du lịch… Có như vậy, sản xuất nông nghiệp của tỉnh mới ngày càng phát triển, đem lại hạnh phúc cho Nhân dân đúng như mong muốn của Bác Hồ kính yêu.
Bài, ảnh: Mai Lan
Nguồn: https://baoninhbinh.org.vn/65-nam-thuc-hien-loi-bac-nong-nghiep-ninh-binh-doi-moi-vuon/d20241017065817332.htm