Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, việc đẩy mạnh tiềm năng, thế mạnh về du lịch để tạo ra trong chiến lược Marketing để phát triển du lịch do vậy việc đổi mới, đa dạng hóa các hình thức marketing du lịch, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong đó mở rộng quy mô, tần suất, nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả của các chiến dịch, chương trình giới thiệu điểm đến Việt Nam, kết nối doanh nghiệp tại các thị trường nguồn, tham gia các hội chợ du lịch lớn trên thế giới và trong khu vực.
Triển khai đa dạng, linh hoạt các hình thức truyền thông marketing phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của từng thị trường, từng giai đoạn, kết hợp hiệu quả giữa các hình thức quảng bá truyền thống và hiện đại: Quảng cáo, quan hệ công chúng, tài trợ, bảo trợ, liên minh thương hiệu… Đổi mới phương thức, công cụ, nội dung, tăng cường ứng dụng công nghệ số trong xúc tiến, quảng bá du lịch. Xây dựng và triển khai chiến lược, kế hoạch marketing kỹ thuật số cần có sự gắn kết với kết quả phân tích, đánh giá dữ liệu thực tế. Tập trung đầu tư marketing nội dung, xây dựng cơ chế phát triển, phân phối nội dung, các sản phẩm sáng tạo và cơ sở dữ liệu phục vụ các hoạt động marketing du lịch.
Du lịch Việt Nam đang phục hồi nhanh chóng – Ảnh: VGP/DA
Đặc biệt tập trung, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phục vụ marketing du lịch thúc đẩy các quan hệ đối tác, tranh thủ nguồn lực sẵn có của các doanh nghiệp, hãng hàng không, các đối tác phân phối lớn trong các hoạt động marketing du lịch, mở rộng khả năng vươn tới các thị trường trọng điểm và tiềm năng. Xây dựng mô hình, phương thức phù hợp gắn với sự tham gia hiệu quả của một số doanh nghiệp chủ lực trong Ngành, cùng thực thi các ý tưởng, dự án marketing du lịch có tính chất đột phá, lan tỏa.
Nâng cao hiệu quả liên kết giữa các địa phương và liên vùng trong phát triển sản phẩm, quảng bá, xúc tiến du lịch. Tăng cường hợp tác với các Bộ, ngành liên quan ngoại giao, thương mại, đầu tư, thông tin truyền thông, hàng không… về quảng bá thương hiệu quốc gia Việt Nam; phát triển hệ thống phân phối sản phẩm, dịch vụ du lịch Việt Nam và chia sẻ thông tin, dữ liệu về thị trường. Vận động nguồn lực của cộng đồng, doanh nghiệp của người Việt Nam ở nước ngoài hỗ trợ công tác marketing du lịch Việt Nam.
Phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông, tạo đột phá trong xúc tiến quảng bá thị trường trong nước, kết hợp nâng cao nhận thức về du lịch. Tranh thủ các sự kiện quốc tế lớn tại Việt Nam để quảng bá điểm đến, thu hút sự quan tâm của báo chí truyền thông, khách du lịch và nhà đầu tư. Đẩy mạnh hợp tác, kết nối quốc tế trong các hoạt động marketing du lịch, đặc biệt là trong khuôn khổ hợp tác ASEAN, hợp tác Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng…
Việt Nam có tài nguyên du lịch phong phú, có văn hóa bản địa đặc sắc, có nền ẩm thực truyền thống đa dạng – Ảnh: VGP/DA
Đồng thời cần đẩy mạnh các hoạt động truyền thông du lịch như tăng cường chia sẻ thông tin, đối thoại, hợp tác với các doanh nghiệp du lịch, các hãng hàng không, các đối tác phân phối lớn. Thực hiện các hoạt động truyền thông nội bộ đối với đội ngũ quản lý, kinh doanh du lịch và cộng đồng xã hội tham gia hoạt động du lịch về thương hiệu du lịch Việt Nam, thông điệp, câu chuyện, giá trị cốt lõi để hiện thực hóa các giá trị này trên thực tế.
Nâng cao năng lực marketing du lịch như tăng cường vai trò định hướng và điều phối công tác marketing của cơ quan quản lý du lịch quốc gia; xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch xúc tiến, quảng bá điểm đến vùng, quốc gia. Tổ chức nghiên cứu thị trường. Xây dựng, cập nhật và có cơ chế chia sẻ, truy cập rộng rãi hệ thống cơ sở dữ liệu về các thị trường nguồn, về mạng lưới đối tác trong và ngoài nước, ấn vật phẩm quảng bá, xúc tiến du lịch quốc gia. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ thực hiện công tác marketing du lịch, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh của Du lịch Việt Nam.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo thuận lợi cho công tác marketing du lịch bao gồm: đề xuất các chính sách tạo thuận lợi hơn nữa về thị thực, thủ tục nhập cảnh; tiếp tục mở rộng và tăng tần suất các đường bay trực tiếp kết nối Việt Nam với các thị trường nguồn du lịch quốc tế; các chính sách thúc đẩy thu hút khách du lịch tàu biển.
Đặc biệt cần định vị thương hiệu du lịch Việt Nam như thương hiệu điểm đến du lịch quốc gia làm nổi bật giá trị cốt lõi của thương hiệu du lịch Việt Nam gắn với tiềm năng, lợi thế quốc gia, bản sắc văn hóa, ẩm thực đặc sắc, di sản lâu đời, con người nồng hậu, cảnh quan tươi đẹp, kết nối với yếu tố cảm xúc, tinh thần của khách du lịch, đảm bảo đem lại các trải nghiệm du lịch độc đáo, nguyên bản, chân thực.
Đối với thương hiệu du lịch vùng cũng cần được chú trọng như vùng Trung du miền núi phía Bắc nên gắn với giá trị đa sắc màu văn hóa dân tộc, thiên nhiên hùng vĩ và các sản phẩm đặc thù gồm du lịch thể thao mạo hiểm, chinh phục thiên nhiên; tìm hiểu, trải nghiệm cuộc sống cộng đồng dân tộc thiểu số; thưởng thức ẩm thực địa phương; du lịch sinh thái – trải nghiệm thiên nhiên hùng vĩ. Vùng Đồng bằng sông Hồng thì gắn với giá trị văn hóa, lịch sử cổ – nơi hội tụ và lan tỏa giá trị văn hóa tinh hoa Việt Nam và các sản phẩm đặc thù gồm du lịch tham quan thắng cảnh biển; du lịch làng nghề, lễ hội; du lịch nông thôn.
Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung thì gắn với các bãi biển cát trắng, nước trong xanh, nắng ấm quanh năm, hệ thống khu nghỉ dưỡng biển đẳng cấp quốc tế và hệ thống di sản được UNESCO công nhận và các sản phẩm đặc thù gồm du lịch nghỉ dưỡng biển; du lịch di sản văn hóa; du lịch sinh thái hang động.
Vùng Tây Nguyên nên gắn với văn hóa đa dạng của các dân tộc, cảnh quan và khí hậu cao nguyên và các sản phẩm đặc thù gồm du lịch tìm hiểu văn hóa dân tộc Tây Nguyên; du lịch sinh thái; du lịch nghỉ dưỡng núi; du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí. Vùng Đông Nam Bộ thì gắn với du lịch đô thị, du lịch MICE, ẩm thực và cảnh quan và các sản phẩm đặc thù gồm du lịch tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng; du lịch tìm hiểu di tích lịch sử – cách mạng tại khu di tích địa đạo Củ Chi; du lịch đường sông. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long nên gắn với cảnh quan, văn hóa vùng sông nước Cửu Long và các sản phẩm đặc thù gồm du lịch sông nước; du lịch sinh thái, tìm hiểu di sản văn hóa; du lịch nghỉ dưỡng biển, đảo, vui chơi giải trí.
Về định hướng sản phẩm du lịch tập trung tiếp thị các nhóm sản phẩm du lịch chủ yếu như du lịch biển, đảo: Các sản phẩm có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực về nghỉ dưỡng biển, sinh thái biển và du lịch tàu biển, các trung tâm nghỉ dưỡng biển cao cấp, có thương hiệu mạnh trên thị trường quốc tế. đẩy mạnh phát triển Du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch đô thị cùng các loại hình, sản phẩm du lịch mới như du lịch kết hợp chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe; du lịch nông nghiệp, nông thôn; du lịch công nghiệp; du lịch thể thao); các sản phẩm phục vụ nhu cầu đa dạng của khách du lịch du lịch MICE, du lịch giáo dục, du lịch du thuyền, du lịch làm đẹp.
Bên cạnh đó phát triển thị trường khách du lịch quốc tế như mở rộng quy mô các thị trường truyền thống: các nước Đông Bắc Á, Châu Âu, khu vực ASEAN, Bắc Mỹ, Nga, Châu Đại dương; tăng thị phần khách có khả năng chi tiêu cao; đa dạng hóa các thị trường hướng đến phát triển bền vững. Có chính sách phân đoạn thị trường, có chủ đề, thông điệp, sản phẩm riêng đối với từng phân khúc thị trường.
Tăng cường sự hiện diện của du lịch Việt Nam ở các thị trường mục tiêu. Đảm bảo nguồn lực marketing du lịch theo mức độ ưu tiên của từng nhóm thị trường mục tiêu. Tạo nguồn lực thông qua liên kết của các doanh nghiệp bao gồm các hãng lữ hành, cơ sở lưu trú, các hãng hàng không và các đối tác khác. Triển khai các hoạt động marketing thông qua các kênh, công cụ để tác động hiệu quả vào cảm xúc của đối tượng thị trường thông qua cách kể chuyện với thông điệp rõ nét về điểm đến, trải nghiệm./.
Vương Thanh Tú