
Những làn khói ấm ướp thơm cơn lạnh đầu mùa. Ảnh: Kỳ Lâm
Dậy sớm vào một sớm mùa cuối thu lành lạnh mới thấy tuyệt đẹp. Dưới một gốc bàng, một đám mây đang bốc lên, lúc mờ lúc tỏ quanh một đám đông xúm xít suýt xoa. Đó không phải là mây hay sương mù mà là khói bốc ra từ một thúng xôi.
Không có gì ấm áp bằng khói xôi của một “sớm chớm lạnh trong lòng Hà Nội”. Thứ khói đó thơm phức mùi hạt nếp cái hoa vàng từng mọc lên trên những cánh đồng Mễ Trì, Phú Thượng được đồ chín đến độ căng mọng như phần mông của con ong, tưởng như chỉ cần cắn nhẹ là cũng vỡ bụp trên hàm răng.
Nhưng không, hạt xôi mọng đó không vỡ như mộng tưởng, mà dẻo thơm, vừa cho vào miệng đã thấy ấm sực cả khoang miệng, rồi theo đó mùi thơm chân chất nhưng đầy quyến rũ sẽ chiếm lĩnh mọi giác quan. Càng nhai, càng thấy dẻo, càng thấy ngọt ngào.
Xôi nếp ăn với muối vừng, muối lạc, ruốc bông, hoặc sang hơn là giò lụa, chả mỡ từng là thức ăn sáng phổ biến vào mùa Đông. Cái gói xôi của Hà Nội hấp dẫn cũng như bao gói xôi khác ở các thành thị của Bắc Việt vào mùa lạnh. Chúng đều đem lại cảm xúc tràn trề.
Ví dụ như ở thành thị Nam Định lại có xôi sọ, vẫn là những hạt xôi thơm phức bao quanh một cái sọ gồm miếng mỡ khổ nằm trong đậu xanh nghiền nhuyễn, đang ăn bỗng dưng thấy “bụp” một tiếng, rồi một làn khói bốc ra thơm nóng mùi hạt tiêu và đậu xanh ngào ngạt. Chao ôi, không có một cảm xúc ẩm thực nào sung sướng, thống khoái hơn thế.
Nhưng cứ phải là những gói xôi buổi sáng, chứ không phải thứ xôi mặn với đủ loại “topping” như thịt kho, chả kho, trứng kho, pa-tê nóng đẫm nước sốt. Bởi vì xôi mặn có vẻ hiện đại và “sang chảnh” hơn, không phù hợp với lớp người xưa cũ và nhất là chúng không thể tỏa làn khói thơm ở trên tay.
Những gói xôi mùa lạnh là cứu tinh của cánh học trò ở thời gian khó. Giá rẻ, nhưng mỗi buổi sáng đến trường lạnh co ro, có được một nắm xôi, vừa đi vừa bốc làn khói ấm, vừa tạo ra được một miếng ngon, miếng nóng để chống lại cái rét đầu mùa, đấy thật sự là một hiện thực thiên đường.
Tuyệt vời hơn khi nắm xôi nóng hổi đó được gói trong những chiếc lá bàng mới hái, được rửa sạch đến bóng lừ. Lá bàng dày và mềm, dù xôi có nóng đến thế nào cũng không mềm xèo như những loại lá khác. Xôi gói lá bàng có một phong vị rất riêng, đem đến cảm giác thú vị và sạch sẽ.
Nhưng khói ấm của mùa lạnh đâu chỉ ở những thúng xôi, những nắm xôi. Cứu tinh của phố mùa Đông lạnh còn nằm ở những chiếc nồi 50 mà khi mở vung, một vầng mây ấm nồng mùi xương bò hầm cùng gừng, thảo quả, quế mãnh liệt xung phong làm cả con phố phải bàng hoàng.

Khói phở Hà Nội. Ảnh: Trang Vũ
Làn khói ấm đó của những nồi nấu phở khiến ai ai cũng phải bồi hồi sớm thu. Vượt lên tất cả, khói ấm của nước phở, của bát phở đã khiến cho mùa lạnh có vẻ ý vị rất riêng. Hầu như mọi dân tộc đều có một món ăn chống lạnh, vừa nóng hổi, vừa ngon lành, vừa đặc sắc. Với người Việt Nam, đó là phở.
Hãy nghĩ đến một thứ nước dùng được ninh bằng than đá trong 8 - 9 giờ đồng hồ. Nhiệt lượng của nguyên liệu và thời gian đun nấu đã chuyển hoá vào từng giọt nước dùng, để rồi nó chuyển hóa vào từng miếng phở, vào từng tế bào của người xơi phở.
Đức Phật đã từng nói, trong mỗi giọt nước chứa đựng vạn nghìn thế giới. Vậy phải chăng một giọt nước dùng phở cũng chứa cả vạn nghìn cơn gió lạnh. Những mùa lạnh đó đã bay lên thành khói ấm, quyến rũ tâm hồn của vạn nghìn người, thành nỗi khắc khoải vào mỗi buổi sáng lạnh dọc phố dài.
Còn gì hạnh phúc hơn được xơi một bát phở ngon vào ngày chớm lạnh. Mặc cho gió mùa hun hút ngoài kia, trong này đã được chở che bằng làn khói ấm bốc ra từ nồi nước phở nghi ngút, bằng bát phở nóng cũng tỏa khói nghi ngút như mặt hồ Dâm Đàm ngày đông. Để rồi, hưởng thụ cái nóng, cái ngon của miếng ăn được rút ruột, rút gan từ hàng nghìn nhiệt lượng.
Song, những làn khói ấm cũng nhiều khi mang vẻ lãng mạn khôn cùng. Hãy ngồi cũng người thương yêu trong quán nhỏ, mắt đau đáu nhìn về một chiếc nồi hấp, bên cạnh là một người phụ nữ dù béo, dù gầy, dù xấu, dù đẹp nhưng có quyền năng như một cô tiên.
Một cái nhấc tay là khói ấm bay lên như rồng cuộn, tay bà bán hàng bất chợt vung lên một muôi bột, xoa lên màng vải một vòng đã tạo ra một lớp bột tròn xoe. Rồi tay lại vung lên úp nắp, những làn khói ấm đột nhiên biến mất, chỉ còn lảng bảng đôi dòng nhẹ như một thoáng nghi ngờ.
Chừng vài phút sau, tay lại vung lên, nắp vung bật mở, màn biểu diễn ảo thuật lại thi triển khiến khói ấm bay lên. Nhưng lần này, làn khói đó đã không chỉ nhạt nhẽo hơi nước mà là cuộn theo mùi thơm của bột gạo chín, của mộc nhĩ băm nhỏ chín, của thịt băm chín.
Kệ cho khói bay như Thăng Long vạn cổ sầu, những ngón tay lại dùng cặp đũa tre vót mỏng, luồn dưới áo bột, biến hóa hình tròn thành hình vuông, từ dàn trải thành cuốn bánh, rồi nhấc lên đặt vào đĩa. Tay đi đến đâu, khói theo đến đấy tùy tùng, cho đến khi được cắt thành miếng vừa ăn, rắc lên chút hành phi vàng ngậy, rồi nghi ngút bay đến trước mặt thực khách.
Miếng bánh cuốn nóng đó chấm trong bát nước chấm cũng hơi sôn sốt, thả ớt tươi và hạt tiêu bắc, ăn với chả quế và rau mùi thực sự là chân ái của cái đêm trở lạnh. Miếng bánh cuốn vào miệng rồi, khoan khoái rồi, vẫn bốc những làn khói nhẹ khi hé miệng hỏi người thương: “Có ngon không?”.
Ở mảnh đất Bắc Việt này có bao nhiêu hàng bánh cuốn? Bao nhiêu kẻ đã ngồi hau háu ngắm khói ấm bánh cuốn ở dốc Hòe Nhai, ở phố núi Cao Bằng, ở chợ cũ Đồng Văn? Ấy là bao nhiêu kẻ được hưởng thú vui ăn làn khói ấm khiến cho mùa lạnh trở thành niềm thương nhớ.
Laodong.vn
Nguồn:https://laodong.vn/du-lich/am-thuc/nhung-lan-khoi-am-mua-chom-lanh-1601128.html






Bình luận (0)