Quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ ban hành đầu năm 2024 được xác định thuộc nhóm quy hoạch ngành quốc gia; xác định phương hướng phát triển, phân bố, tổ chức không gian, nguồn lực cho các cơ sở y tế mang tính liên ngành, liên vùng, liên tỉnh.
Có năm nhóm lĩnh vực chịu ảnh hưởng của quy hoạch này bao gồm: khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng; giám định y khoa, giám định pháp y và giám định pháp y tâm thần; y tế dự phòng, y tế công cộng; kiểm nghiệm, kiểm định, kiểm chuẩn về thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm, vaccine và sinh phẩm y tế, thiết bị y tế, sản xuất dược phẩm, vaccine, sinh phẩm y tế và thiết bị y tế; dân số – sức khỏe sinh sản.
Như vậy, Quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế không bao gồm các đơn vị quản lý nhà nước về y tế (vụ, cục, chi cục…) cũng như không bao gồm các cơ sở y tế địa phương (vốn thuộc phạm vi quy hoạch tỉnh). Thay vào đó, Quy hoạch đưa ra những định hướng mang tính nguyên tắc để hướng dẫn các địa phương đưa hợp phần mạng lưới cơ sở y tế địa phương vào quy hoạch của tỉnh.
Theo PGS,TS Phan Lê Thu Hằng, Phó Vụ trưởng Kế hoạch tài chính (Bộ Y tế), Quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế xác định sự kiên định trong việc theo đuổi mục tiêu công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập quốc tế, đảm bảo phát triển mạng lưới cơ sở y tế để làm tăng khả năng tiếp cận dịch vụ của người dân và đủ năng lực đáp ứng nhu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong từng thời kỳ, đồng thời từng bước tiệm cận hệ thống y tế của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Các chỉ tiêu phấn đấu về quy mô giường bệnh và nhân lực y tế chủ chốt được đưa ra rất cao, theo đó tới năm 2050, chỉ số này của Việt Nam sẽ đạt mức bình quân của nhóm nước công nghiệp phát triển hàng đầu.
Những định hướng mới trong phát triển mạng lưới cơ sở y tế trong thời gian tới khá cụ thể. Đối với lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh, đó là phát triển mạng lưới cơ sở y tế theo định hướng công bằng, hiệu quả, phát triển và hội nhập quốc tế thông qua: phát triển năng lực chuyên môn kỹ thuật cấp chăm sóc chuyên sâu; gia tăng tổng nguồn cung các dịch vụ chăm sóc chuyên sâu tuyến cuối của một số chuyên khoa ưu tiên như ung bướu, tim mạch, sản/sản – nhi, lão khoa, phục hồi chức năng, y học cổ truyền, truyền nhiễm; bảo đảm vai trò ứng phó cấp vùng khi có dịch bệnh, thảm hoạ…
Phát triển mạng lưới cơ sở y tế sẽ giúp người dân tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức sức khỏe chuyên sâu, chất lượng cao. Trong ảnh: trao đổi, động viên người bệnh điều trị tại Bệnh viện K |
Đối với lĩnh vực y tế dự phòng, y tế công cộng, hình thành cơ quan kiểm soát bệnh tật Trung ương và ba trung tâm kiểm soát bệnh tật khu vực gắn với các Viện Vệ sinh dịch tễ và Pasteur hiện có để đảm nhận vai trò kết nối và hỗ trợ các trung tâm kiểm soát bệnh tật cấp tỉnh. Đảm bảo vai trò kết nối trong nước và quốc tế; hỗ trợ các CDC tỉnh nhằm bảo đảm đủ năng lực dự báo, giám sát và phát hiện sớm, khống chế kịp thời, có hiệu quả các dịch bệnh và kiểm soát các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng.
Đối với lĩnh vực kiểm nghiệm, kiểm định, kiểm chuẩn, phát triển năng lực chuyên môn kỹ thuật ở cả cấp quốc gia và cấp vùng thông qua việc nâng cao năng lực các Viện chuyên ngành quốc gia; phát triển sáu trung tâm kiểm nghiệm vùng tại sáu vùng kinh tế – xã hội, nâng cấp các trung tâm kiểm chuẩn chất lượng xét nghiệm y học đảm nhận chức năng vùng; hình thành đơn vị quốc gia về chuyển giao công nghệ vaccine tại Hà Nội nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ trong sản xuất vaccine và sinh phẩm y tế trên phạm vi toàn quốc.
Phát triển các trung tâm thử nghiệm lâm sàng hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế trực thuộc một số bệnh viện trung ương và viện nghiên cứu chuyên ngành phục vụ nghiên cứu và thử nghiệm thuốc, vaccine; trung tâm nghiên cứu nguồn gen và giống dược liệu quốc gia. Phát triển ngành sản xuất thuốc, vaccine, thiết bị y tế trong nước đồng bộ, hiện đại, nâng cao năng lực sản xuất tiến tới tự chủ nguồn cung ứng thuốc, vaccine, thiết bị y tế trong nước.
Đối với lĩnh vực giám định y khoa, giám định pháp y và giám định pháp y tâm thần, nâng cao năng lực và cơ sở vật chất của các đơn vị giám định y khoa, giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần hiện có. Xây dựng mới một cơ sở giám định pháp y khu vực tại Thành phố Hồ Chí Minh; hai cơ sở giám định pháp y tâm thần khu vực tại Nghệ An và Thành phố Hồ Chí Minh.
Đối với lĩnh vực dân số – sức khỏe sinh sản, phát triển các dịch vụ kỹ thuật chuyên sâu về hỗ trợ sinh sản, tầm soát, chẩn đoán và điều trị sớm bệnh, tật trước sinh, sơ sinh gắn với các bệnh viện chuyên khoa sản/sản – nhi, bệnh viện có chuyên khoa sản/sản – nhi. Phát triển sáu trung tâm sàng lọc, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh khu vực hiện có tại các vùng đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung, Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long; hình thành hai trung tâm sàng lọc, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh cấp vùng tại vùng trung du và miền núi phía Bắc, Tây Nguyên.
Phát triển các dịch vụ kỹ thuật chuyên sâu về chăm sóc sức khỏe người cao tuổi gắn với các bệnh viện lão khoa, bệnh viện có chuyên khoa lão; hình thành bệnh viện lão khoa tại vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Về mục tiêu dài hạn, quy hoạch có đề cập tới sự hình thành hai khu phức hợp y tế chuyên sâu khi có đủ điều kiện tại hai miền Nam – Bắc. Khu phức hợp y tế được nhiều chuyên gia xem là mô hình có thể giúp tạo cú hích cho hoạt động đổi mới sáng tạo và phát triển kỹ thuật cao của toàn ngành y tế, phù hợp với mục tiêu kiến tạo một hệ thống y tế hiện đại, tiên tiến cũng như quan điểm coi y tế là một ngành dịch vụ có khả năng đóng góp trực tiếp cho tăng trưởng kinh tế.
Khu phức hợp y tế được xem phù hợp nhất với các cơ sở y tế có hệ thống phòng xét nghiệm lớn và phức tạp (như các cơ sở quan trọng của hệ thống y tế dự phòng, y tế công cộng kiểm nghiệm, kiểm định, ngân hàng máu, ngân hàng tế bào gốc…); các trung tâm nghiên cứu và phát triển y sinh học công nghệ cao; các cơ sở đào tạo nhân lực y tế lớn; các cơ sở khám chữa bệnh (bệnh viện và phòng khám) kỹ thuật cao; các cơ sở nghiên cứu sản xuất dược phẩm, chế phẩm sinh học và trang thiết bị y tế công nghệ cao…
Mô hình này có nhiều lợi thế, như tạo không gian cho sự hợp tác, chia sẻ hạ tầng kỹ thuật y tế dùng chung giữa các cơ sở y tế, nhất là giữa các hệ thống labo; tạo không gian liên kết giữa nghiên cứu, phát triển, đào tạo nhân lực và thiết kế sản xuất các sản phẩm y dược công nghệ cao…
Nguồn: https://nhandan.vn/nhung-diem-nhan-cua-quy-hoach-mang-luoi-co-so-y-te-post850618.html