Là một trong những nước bỏ phiếu thông qua UNCLOS và ký Công ước trong ngày mở ký, ngay từ trước khi Công ước có hiệu lực ngày 16/11/1994, trong Nghị quyết phê chuẩn UNCLOS ngày 23/6/1994, Việt Nam đã khẳng định quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển. Như hầu hết các quốc gia ven biển khác, Việt Nam ngày càng đề cao hợp tác quốc tế về biển, đặt vấn đề này trong tổng thể chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế và khu vực.
Lá cờ Tổ quốc tung bay tại khu vực đảo Sinh Tồn Đông, quần đảo Trường Sa, tháng 4/2023. Ảnh: Nguyễn Hồng
Điều 6, Luật Biển Việt Nam 2012 khẳng định Nhà nước đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biển với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở pháp luật quốc tế, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, các bên cùng có lợi, đồng thời quy định cụ thể các nội dung hợp tác quốc tế về biển.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển những thành quả từ thực tiễn đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển thời gian qua, với phương châm “chủ động tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển”, Nghị quyết số 36-NQ/TW về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Nghị quyết 36) do Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tháng 10/2018 ban hành đã đề ra các giải pháp triển khai phù hợp với hoàn cảnh đất nước và xu thế thời đại. Theo đó, đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển gắn bó chặt chẽ, trở thành một trong năm (05) chủ trương lớn và một trong bảy (07) giải pháp chủ yếu trong Nghị quyết 36 nhằm xây dựng và duy trì môi trường hoà bình, ổn định và trật tự pháp lý trên biển, tạo cơ sở cho việc khai thác và sử dụng biển an toàn, hiệu quả; tăng cường, mở rộng quan hệ và chủ động tham gia, đóng góp tích cực vào nỗ lực chung của nhân loại trong việc bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương; đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực, sự hỗ trợ quốc tế để nâng cao năng lực quản lý và khai thác biển.
Sự coi trọng vấn đề hợp tác biển cũng được thể hiện trong rất nhiều các văn bản pháp lý và chính sách quan trọng khác của Việt Nam ban hành thời gian qua như Luật Tài nguyên Môi trường biển và hải đảo 2015, Luật Thuỷ sản 2018, Luật Dầu khí 2022, Đề án hợp tác quốc tế về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, hay Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050…
Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ phát biểu tại Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (SPLOS) lần thứ 34 tại trụ sở Liên hợp quốc, New York từ ngày 10-14/6. Ảnh: Internet
Kết tinh từ các văn bản này là quan điểm nhất quán của Việt Nam về hợp tác quốc tế về biển, theo đó Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biển với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS. Việt Nam đề cao vai trò của UNCLOS với tư cách là khuôn khổ pháp lý cho tất cả các hoạt động trên biển và đại dương, và là cơ sở pháp lý cho mọi hành động và hợp tác ở cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu. Việt Nam cam kết cùng các nước nỗ lực hợp tác duy trì hoà bình, ổn định, an ninh trật tự trên biển, tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông; hợp tác giải quyết tranh chấp tại Biển Đông bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS; đánh giá cao vai trò của các nước cũng như hoan nghênh các sáng kiến hợp tác về biển trên tất cả các lĩnh vực với mục đích cùng có lợi và phát triển bền vững ở Biển Đông./.
Kim Oanh