Nhạc phụ và nhạc mẫu

Báo Thanh niênBáo Thanh niên15/02/2025


Có lẽ bản thảo viết tay Dictionarium Anamitico-Latinum (1772) của P.J.Pigneaux là một trong những từ điển đầu tiên ghi nhận 2 từ ghép này kèm theo chữ Hán: nhạc phụ (岳父), nhạc mẫu (岳母). Về nghĩa, trong Đại Nam Quấc âm tự vị (1895), Huình-Tịnh Paulus Của chú giải: nhạc phụ là cha vợ, nhạc mẫu là mẹ vợ. Bây giờ, thử đi tìm từ nguyên của hai thuật ngữ này.

Nhạc phụ (岳父) có nguồn gốc từ câu chuyện Trương Thuyết (667 - 731) thời Đường Huyền Tông. Ngày nọ, sau khi hoàng đế dâng lễ vật cúng bái các vị thần tại Thái Sơn (ngọn núi đầu tiên trong Ngũ Nhạc), tể tướng Trương Thuyết (có tài liệu phiên là Trương Duyệt) liền phong chức cho con rể Trịnh Dật lên hàng ngũ phẩm và ban y phục màu đỏ. Tuy nhiên, theo quy định của nhà Đường lúc bấy giờ, sau nghi thức lễ hiến tế, tất cả các quan dưới Tam Công đều bị giáng một bậc. Huyền Tông kinh ngạc hỏi Trịnh Dật, nhưng Trịnh Dật không dám trả lời. Hoàng Phan Xước đứng gần đó bèn tâu với vua: "Đó là sức mạnh của Thái Sơn vậy"(Thử Thái Sơn lực dã). Câu Hoàng Phan Xước nói đó hàm có hai ý: một là nhờ dịp tế phong thiện núi Thái Sơn; một là nhờ sức của cha vợ. Từ đó về sau, ở Trung Quốc, con rể bắt đầu gọi cha vợ là Thái Sơn. Do Thái Sơn còn có tên khác là Đông Nhạc nên Trương Thuyết còn được gọi là nhạc phụ hoặc nhạc ông.

Trong tập 16 của Thổ Phong Lục, một bộ từ điển 18 tập do Cố Trương Tư biên soạn vào thời nhà Thanh, có câu: "thê phụ diệc viết nhạc phụ, hoặc xưng viết Thái sơn" nghĩa là "cha vợ gọi là nhạc phụ hoặc là Thái Sơn".

Trên Thái Sơn có hòn núi tên là Trượng Nhân Phong (do hình trạng giống như một ông già) nên cha vợ còn được gọi là nhạc trượng hoặc trượng nhân phong. Từ nhạc trượng (岳丈) xuất phát từ nhan đề bài Đại thọ nhạc trượng của tiến sĩ Hoàng Công Phụ, người đã sáng tác bài thơ thất ngôn này thời nhà Minh để kỷ niệm ngày sinh của cha vợ ông.

Nhạc mẫu (岳母) xuất phát từ cụm từ "nhạc mẫu lậu chi" trong quyển Cao Trai mạn lục của Tăng Tháo thời nhà Tống. Ngoài ra, còn từ khác là Thái Thủy (泰水), một biệt danh dùng để chỉ mẹ vợ, xuất phát từ quyển Kê lặc biên do Trang Xước biên soạn vào cuối thời Bắc Tống. Trong quyển nghiên cứu văn bản này, Trang Xước giải thích: "Thái thủy, vị trượng mẫu dã" (Thái thủy có nghĩa là mẹ vợ).

Từ xưa đến nay, từ ghép nhạc phụnhạc mẫu thường được dùng trong những trường hợp trang trọng, đặc biệt là trong văn viết, chẳng hạn như: "Kính thăm nhạc phụ từ mẫu song thân" (tr.125) hay "nhạc mẫu" (tr.608) trong quyển Dictionarium latino-anamiticum (1838) của Jean Louis Taberd.

Trong những trường hợp ít trang trọng hơn, người ta thường sử dụng từ ông nhạcbà nhạc thay cho nhạc phụnhạc mẫu. Điều này đã được ghi nhận trong quyển Dictionnaire annamite-francçais (langue officielle et langue vulgaire) của Jean Bonet, xuất bản năm 1899: nhạc phụ, beau-père (père de l'épouse) - ông nhạc; nhạc mẫu, belle-mère (mère de l'épouse) - bà nhạc (tr.50).

Cuối cùng, theo Đại Nam Quấc âm tự vị (sđd), người Việt xưa đã sử dụng từ nhạc (岳) với nghĩa chung là "cha mẹ vợ" hoặc gọi cha vợ là nhạc phụ, nhạc trượng, nhạc gia hoặc ông nhạc; và gọi mẹ vợ là nhạc mẫu hoặc bà nhạc



Nguồn: https://thanhnien.vn/lat-leo-chu-nghia-nhac-phu-va-nhac-mau-185250214212910849.htm

Bình luận (0)

No data
No data

Event Calendar

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Cùng tác giả

No videos available