Ngược dòng lịch sử, sau cuộc Nam chinh của vua Lê Thánh Tông vào năm 1471, vị khai canh của làng đã lựa chọn mảnh đất bồi tụ phù sa bên khúc quanh của dòng sông để làm nơi dừng chân, đặt tên là Hội Kỳ.
Ngôi làng từ ấy luôn hướng mặt về phía dòng nước như nguồn sống, lấy lũy tre ngà làm thành trì, mở những ngõ xóm hình xương cá về phía ruộng đồng mặt sau như hậu phương vững chắc.
Từ buổi đầu, thập nhị tông phái (12 dòng họ) của làng như Nguyễn, Nguyễn Văn, Dương Quang, Dương Văn, Trần, Ngô, Nguyễn Đức… đã cùng nhau vỡ đất khai hoang, chọn nghề nông làm sinh kế.
Trải qua hơn 500 năm, làng Hội Kỳ có đầy đủ các thiết chế văn hóa tín ngưỡng đình, miếu, nhà thờ tộc họ, tất cả đều hướng mặt ra bờ sông.
Đình làng là nơi dân làng tổ chức nghi tiết xuân thu nhị kì hàng năm, là nơi trao truyền văn hóa truyền thống với các lễ tục, lệ làng.
Bên cạnh đó, những ngôi nhà thờ họ là nơi lưu giữ các văn bản gia phả, sắc phong, văn sớ cúng tế, nơi cố định nề nếp, gia phong của dòng họ.
Đặc biệt, trong không gian của làng, khoảng đất phía sau khu vực cư trú hiện còn lăng tẩm của bà phi Dương Thị Ngọt - người con tài sắc của làng, vị cửu giai tài nhân - phi tần của vua Thành Thái - vị vua thứ 10 của triều Nguyễn.
Làng Hội Kỳ nhỏ, hẹp, nhưng ẩn mình bên trong không gian ấy lại là cảnh sắc trữ tình với hệ thống di sản văn hóa đồ sộ được hun đúc qua nhiều thế hệ.
Tạp chí Heritage
Bình luận (0)