Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Lê Đình Thọ cho rằng, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, những nhiệm vụ đặt ra đối việc việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải của tỉnh Nghệ An trong nhiều năm qua đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh trên địa bàn tỉnh.
Giai đoạn 2013-2020 theo thống kê, ngân sách trung ương, địa phương đã huy động đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông lên đến khoảng 24.426 tỷ đồng; giai đoạn 2021 – 2025 khoảng 12.500 tỷ đồng. Nhờ đó, diện mạo hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông của tỉnh đã có sự thay đổi rõ rệt, nhiều công trình quan trọng đã được đầu tư đưa vào khai thác.
Về đường bộ, đã hoàn thành đưa vào khai thác đoạn tuyến cao tốc Nghi Sơn – Diễn Châu dài 50km và đang triển khai thi công tuyến cao tốc đoạn Diễn Châu – Bãi Vọt, dự kiến hoàn thành năm 2024 dài km 49km; đã cải tạo, nâng cấp 1.900 km đường Quốc lộ.
Về đường sắt, đã và đang cải tạo, nâng cấp duy trì khai thác 84 km đường sắt hiện có để kết nối tỉnh Nghệ An với các địa phương trên hành lang Bắc – Nam. Về hàng hải, đã đầu tư để hình thành 7 bến cảng góp phần tăng trưởng sản lượng hàng hóa tăng trưởng trung bình 23%/năm.
Về đường thủy nội địa đang khai thác 8 tuyến, tổng chiều dài 263 km; đưa vào khai thác có hiệu quả tuyến vận tải thủy ven biển phục vụ nhu cầu nội tỉnh, liên tỉnh.
Về hàng không, đã có bước phát triển mới với nhiều đường bay nội địa đã được mở rộng góp phần kết nối giao thông vận tải tỉnh Nghệ An với cả nước; năm 2019, cảng hàng không Vinh có sản lượng vận tải cao nhất trong số các cảng hàng không thuộc khu vực Bắc Trung Bộ. Hệ thống giao thông địa phương, đường đô thị, đường địa phương được quan tâm đầu tư, kết nối có hiệu quả với hệ thống giao thông quốc gia.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông tỉnh Nghệ An vẫn còn một số hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển trong bối cảnh mới như: chưa hình thành được hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, các tuyến vận tải có lưu lượng lớn; giao thông kết nối vùng, liên vùng, kết nối trục ngang theo hướng Đông – Tây còn hạn chế; kết nối đường sắt với các cảng biển chưa hình thành; thị phần vận tải chưa hợp lý; một số cảng biển khai thác chưa hiệu quả; chưa phát huy được vai trò đầu mối trung chuyển, quá cảnh hàng hóa cho Lào, ASEAN.
Theo Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Lê Đình Thọ, nguyên nhân chủ yếu là do quy hoạch thiếu tính đồng bộ; nguồn lực đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu; chưa có các cơ chế, chính sách đủ mạnh để huy động nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách. Địa bàn tỉnh Nghệ An rộng, địa hình thay đổi từ dải đồng bằng ven biển đến miền núi khó khăn cho công tác bảo trì, đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông; năng lực của doanh nghiệp vận tải trên địa bàn tỉnh còn yếu, chưa cung cấp đầy đủ dịch vụ vận tải, dịch vụ logistics chất lượng cao.
Nhấn mạnh kế hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông của tỉnh Nghệ An đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải cho rằng, Nghệ An phải quán triệt Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 3/11/2022 của bộ Chính trị của vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ, Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 18/7/2023 của Bộ Chính trị, trong giai đoạn tới, Bộ Giao thông vận tải sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với tỉnh Nghệ An để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông của tỉnh Nghệ An.
Trong đó, sẽ hoàn thành đưa vào khai thác 84km tuyến đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông, tuyến đường bộ ven biển; huy động vốn đầu tư tuyến cao Hà Nội – Viên Chăn (đoạn qua tỉnh Nghệ An) với chiều dài 65km; nâng cấp các tuyến quốc lộ trọng yếu như Quốc lộ 7, Quốc lộ 48, Quốc lộ 46; kết nối khu vực Đông – Tây đặc biệt là kết nối với các cảng biển lớn.
Tiếp tục nâng cấp để khai thác hiệu quả tuyến đường sắt Bắc – Nam hiện tại, chuẩn bị đầu tư để phấn đấu khởi công đoạn từ Hà Nội đến Vinh; đầu tư ga Vinh mới phù hợp quy hoạch.
Nâng cấp và nâng cao năng lực khai thác các cảng biển, nhất là khu bến Bắc Cửa Lò; phát triển khu bến Đông Hồi, kết hợp với khu bến Nam Nghi Sơn thành cụm khu bến Nghi Sơn – Đông Hồi bằng hình thức đầu tư phù hợp, khuyến khích hình thức hợp tác đối tác công – tư.
Nâng cao hiệu quả khai thác các hàng lang vận tải thủy ven biển và các tuyến vận tải thủy kết nối với các cảng biển; phát triển hệ thống cảng, bến thủy nội địa phục vụ du lịch và kết nối từ bờ ra đảo; huy động nguồn lực đầu tư các bến cảng thuộc các cảng biển Nghệ An.
Nâng cấp, mở rộng và nâng cao hiệu quả khai thác cảng hàng không quốc tế Vinh theo quy hoạch, khuyến khích đầu tư theo hình thức hợp tác đối tác công – tư. Phát triển đồng bộ hệ thống logistics gắn với cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, hành lang kinh tế Đông – Tây.
Đến năm 2045, phát triển mạng lưới giao thông vận tải tỉnh Nghệ An đồng bộ, hiện đại đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần đưa tỉnh Nghệ An trở thành tỉnh có thu nhập cao vào năm 2045.
Để đạt được các mục tiêu phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đáp ứng nhu cầu phát triển, tạo động lực tăng trưởng cho tỉnh Nghệ An, Bộ Giao thông vận tải sẽ phối hợp với tỉnh Nghệ An tổ chức triển khai những nhiệm vụ, giải pháp trong Nghị quyết số 39; đồng thời tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm trong lĩnh vực giao thông vận tải.
Trong đó, tổ chức quán triệt, triển khai đến các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tầng lớp nhân dân tạo nhận thức chung, đồng thuận về Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị để triển khai thực hiện có hiệu quả, trong đó có lĩnh vực Giao thông vận tải.
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch tỉnh Nghệ An thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, xây dựng Chương trình hành động, kế hoạch chi tiết, cụ thể, gắn với các cơ chế chính sách phù hợp, giao cho các cấp, các ngành, địa phương triển khai thực hiện hiệu quả.
Đẩy mạnh công tác đầu tư các công trình giao thông quốc gia, liên vùng và trên địa bàn tỉnh để tạo không gian phát triển mới, khắc phục các điểm nghẽn. Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm tránh dàn trải, tập trung các công trình có tính lan tỏa; tăng cường hợp tác liên kết vùng, hợp tác quốc tế với nước bạn Lào và các nước trong tiểu vùng Mê Kông.
Xây dựng cơ chế, chính sách mang tính chất đột phá, trình cấp có thẩm quyền ban hành nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn để huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông. Chủ động nghiên cứu, đơn giản hóa thủ tục hành chính, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, gắn với nâng cao năng lực quản lý, giám sát.
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong đầu tư, quản lý, điều hành hoạt động vận tải, nâng cao chất lượng dịch vụ, logistics; đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, hoàn thiện hệ thống giao thông thông minh.