Giá USD tiếp tục đà tăng
Tỷ giá USD, tỷ giá USD/VND, giá USD chợ đen, USD VCB hôm nay tiếp tục đà tăng trong và ngoài nước. Tỷ giá USD thế giới hiện trên mốc 104 điểm.
Hiện tỷ giá USD các ngân hàng thương mại được phép giao dịch là từ 23.400 – 25.125 VND/USD. Tỷ giá bán cũng được Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước đưa phạm vi mua bán về mức 23.400 – 25.125 VND/USD.
Tỷ giá USD ngân hàng, tỷ giá ngoại tệ trong nước sáng nay ghi nhận hàng loạt điều chỉnh tại các ngân hàng. Cụ thể, Vietcombank giảm 75 đồng cho mức mua vào là 23.900 và mức bán ra là 24.240. Giá mua và giá bán USD hiện nằm trong khoảng từ 23.400 – 25.300 VND/USD.
Tỷ giá Yen Nhật chưa có dấu hiệu hồi phục
Tỷ giá Yen Nhật khảo sát vào sáng 4/9, tại các ngân hàng, cụ thể như sau:
Tại Vietcombank, Yen Nhật Vietcombank có tỷ giá mua là 160,55 VND/JPY và bán là 169,96 VND/JPY.
Tại Ngân hàng Vietinbank, chiều mua là 161,28 VND/JPY và chiều bán là 170,98 VND/JPY.
Tại ngân hàng BIDV, chiều mua đạt mức 161,03 VND/JPY, chiều bán đạt mức 169,59 VND/JPY.
Tại ngân hàng Agribank, chiều mua và chiều bán lần lượt là 162,60 VND/JPY và 166,69 VND/JPY.
Tại ngân hàng Eximbank, tỷ giá mua và tỷ giá bán lần lượt đẩy giá về mức 161,57 VND/JPY ở chiều mua và 167,42 VND/JPY ở chiều bán. Tại Techcombank, chiều mua là 158,42 VND/JPY và ở chiều bán là 170,74 VND/JPY. Tại Sacombank, chiều bán là 162,53 VND/JPY và chiều mua là 169,11 VND/JPY.
Theo khảo sát của P.V, tỷ giá Yen Nhật hôm nay tại Sacombank là ngân hàng có tỷ giá mua Yen Nhật cao nhất và Agribank là ngân hàng có tỷ giá bán thấp nhất trong số các ngân hàng khảo sát.
Vàng thế giới giảm nhẹ ở mức 1939,6 USD/oz
Vàng thế giới giao ngay trên sàn Kitco lúc 5h45 sáng 4/9 trên sàn Kitco đang là 1939,6 USD/oz, giảm 0,3 USD/oz.
Quy đổi giá vàng thế giới theo tỷ giá ngoại tệ tại Vietcombank: 1 USD = 24.240 VND, giá vàng thế giới tương đương 56,64 triệu đồng/lượng, thấp hơn 11,61 triệu đồng/lượng so với giá vàng SJC bán ra chiều 3/9.
Tại thị trường trong nước, Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn niêm yết giá vàng mua vào ở mức 67,55 triệu đồng/lượng; giá bán ra là 68,25 triệu đồng/lượng, giữ nguyên giá ở cả chiều mua vào và bán ra. Chênh lệch giá mua – bán vàng SJC đang là 700.000 đồng/lượng.
Cùng thời điểm, Tập đoàn DOJI niêm yết giá vàng mua vào – bán ra ở mức 67,6 – 68,3 triệu đồng/lượng, giữ nguyên ở chiều mua vào và bán ra so với chốt phiên trước. Chênh lệch giá mua – bán vàng DOJI đang là 700.000 đồng/lượng.
Giá nhiều loại lúa tăng 200 đồng/kg
Giá lúa gạo hôm nay tại thị trường nội địa không có biến động. Trong tuần qua, giá nhiều mặt hàng lúa điều chỉnh tăng 200 đồng/kg.
Tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long tiếp xu hướng đi ngang do thương lái và các kho vẫn đang trong kỳ nghỉ Lễ Quốc khánh 2/9.
Cụ thể, tại kho An Giang, lúa Đài thơm 8 ổn định ở mức 8.000 – 8.200 đồng/kg; lúa OM 18 được dao động quanh mốc 8.000 – 8.200 đồng/kg; Nàng Hoa 9 giá 8.000 – 8.400 đồng/kg; lúa IR 50404 ổn định ở mức 7.800 – 8.000 đồng/kg; lúa OM 5451 giá 7.800 – 8.000 đồng/kg; lúa Nhật 7.800 – 8.000 đồng/kg.
Với mặt hàng gạo, hôm nay giá gạo chững lại và đi ngang sau phiên điều chỉnh giảm. Theo đó, gạo nguyên liệu IR 504 ổn định ở mức 12.300 – 12.350 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 duy trì quanh mốc 14.300 – 14.400 đồng/kg.
Theo các thương lái, hôm nay lượng gạo về ít. Thị trường lúa gạo giao dịch chậm lại do vào kỳ nghỉ lễ, các kho ngưng mua. Trong tuần qua, giá nhiều mặt hàng lúa tiếp tục tăng 100 – 200 đồng/kg, trong khi giá gạo hầu như ít biến động.
Trên thị trường xuất khẩu gạo, theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), giá gạo xuất khẩu duy trì ổn định quanh mức 628 – 643 USD/tấn. Trong tuần qua, giá gạo xuất khẩu tiếp tục đà tăng với mức tăng 5 USD/tấn.
Với lượng gạo xuất khẩu 6-8 triệu tấn/năm, hiện Việt Nam nằm trong top 3 quốc gia gạo xuất khẩu nhiều nhất thế giới, chỉ đứng sau Ấn Độ và Thái Lan. Ở một số thời điểm Việt Nam còn vươn lên vị trí thứ 2 thế giới về lượng gạo xuất khẩu.
Gạo Việt được xuất khẩu sang 150 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; Philippines, Trung Quốc và Indonesia là 3 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của nước ta với thị phần lần lượt 40,3%, 14% và 12,1%.