Theo quy hoạch, sản lượng than khai thác lộ thiên vùng Quảng Ninh chiếm từ 38-40% tổng sản lượng than của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV). Theo đó, trung bình mỗi năm, các mỏ sẽ xúc bốc, vận chuyển xấp xỉ 190 triệu m3 đất đá, hệ số bóc dao động từ 11,2-11,5m3/năm. Đáp ứng yêu cầu sản xuất, các mỏ lộ thiên chủ động đầu tư, tối ưu hóa công đoạn xúc bốc, vận tải đất đá và than; đồng bộ thiết bị và hình thành các tổ hợp xúc bốc – vận tải phù hợp để nâng cao năng lực khai thác trong điều kiện sản xuất ngày một khó khăn.
Phân xưởng vận tải 5 là đơn vị chủ lực của Công ty CP Than Đèo Nai – Vinacomin, hiện đang quản lý, sử dụng 26 thiết bị trọng tải lớn. Trong đó có 2 xe HD 465-7R tải trọng 55 tấn, 9 xe CAT 777D tải trọng 96 tấn và 15 xe CAT 777E tải trọng 96 tấn. Với năng lực thiết bị như vậy, Công ty giao cho Phân xưởng vận chuyển 450.000 tấn than và 4,9 triệu m3 đất đá mỗi năm.
“Với hệ thống phương tiện, thiết bị được giao quản lý và vận hành, Phân xưởng Vận tải 5 luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ sản xuất. Đặc biệt, trong chiến dịch hạ moong vỉa chính năm 2022 vừa qua, phân xưởng đã thực hiện trên 127% kế hoạch vận chuyển đất đá và than công ty giao” – ông Lê Văn Hưng, Quản đốc Phân xưởng Vận tải 5, Công ty CP Than Đèo Nai cho biết.
Trung bình một năm, Than Đèo Nai có nhiệm vụ sản xuất khoảng 2,5 triệu tấn than nguyên khai, bóc xúc 21 triệu m3 đất đá. Trong điều kiện khai thác của mỏ ngày một xuống sâu (hiện đã tiệm cận độ sâu -250m, chiều cao truyền tải 326m), đơn vị sẽ cần đầu tư các chủng loại thiết bị vận tải khác nhau để hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật được giao.
Ông Thiệu Đình Giảng, Phó Giám đốc Công ty CP Than Đèo Nai cho biết, tính riêng phương tiện vận tải, Than Đèo Nai hiện đang huy động 62 xe trọng tải từ 90-100 tấn. Trong đó, dòng xe trọng tải lớn, hiện đại nhất ở mỏ là CAT 777E và 777D có khoảng 43 xe. Còn lại là xe HD 785-7 và 787-8R. Ngoài các dòng xe trọng tải từ 90-100 tấn, Than Đèo Nai cũng sử dụng 11 xe trọng tải 55-60 tấn, phù hợp hoạt động ở khu vực đáy moong.
Không riêng Than Đèo Nai, các đơn vị khai thác than lộ thiên vùng Quảng Ninh cũng đang sở hữu hệ thống phương tiện xúc bốc, vận tải hiện đại và phù hợp với các vị trí sản xuất. Các tổ hợp xúc bốc – vận tải được hình thành theo hướng đồng bộ công suất để tiết kiệm chi phí và nâng cao năng lực khai thác.
Công ty CP Than Cao Sơn hiện đang quản lý, vận hành 361 thiết bị, hoạt động trên phạm vi khai trường rộng hơn 1.390ha. Trong đó, có 53 máy xúc các loại, từ máy xúc điện EKG đến các dòng máy thủy lực gầu ngược dung tích lớn như PC1250, PC2000. Đồng bộ với những thiết bị xúc bốc này là 250 xe vận chuyển đất đá và than, có tải trọng từ 35-100 tấn. Tùy từng vị trí sản xuất, Công ty sẽ bố trí các thiết bị xúc bốc và vận tải liên kết, đồng bộ với nhau.
“Đơn cử, máy xúc PC2000, cơ cấu vận hành thủy lực gầu ngược có dung tích lớn nhất hiện nay của ngành khai thác mỏ Việt Nam. Gầu xúc của máy PC2000 có dung tích 12m3, đủ sức phục vụ cho các xe ô tô siêu tải trọng từ 90 tấn trở lên của mỏ Cao Sơn. Cỗ máy này được thiết kế đặt trên hệ thống bánh xích, có thể dễ dàng di chuyển và làm việc ở những vị trí cao từ 2-3m trên khai trường mỏ lộ thiên” – anh Nguyễn Xuân Trường, Tổ trưởng Tổ máy PC17, Công trường Khai thác 1, Công ty CP Than Cao Sơn – TKV đánh giá.
Các tổ hợp đồng bộ hiện đang được các mỏ lộ thiên vùng Quảng Ninh thực hiện là đồng bộ máy xúc chạy điện EKG và máy xúc thủy lực có dung tích gầu từ 3,5-6,7m3 với ô tô trọng tải từ 36-58 tấn. Sự kết hợp này được các mỏ nhận định là tương đối phù hợp trong điều kiện sản xuất hiện nay. Năng suất của các loại máy xúc này đều tăng từ 101-122% so với định mức. Các loại máy xúc có dung tích gầu lớn từ 8-12m3 được các mỏ kết hợp với ô tô có tải trọng từ 90-130 tấn. Các tổ hợp thiết bị công suất lớn này khi hoạt động liên kết với nhau cũng cho năng suất ổn định, đảm bảo định mức do TKV ban hành.
Việc đồng bộ thiết bị cũng được các mỏ thực hiện trên cơ sở đảm bảo các thông số hình học mỏ theo thiết kế, gồm chiều rộng, đường vận tải, chiều cao tầng, góc nghiêng sườn tầng, góc dốc bờ công tác.., từ đó đảm bảo an toàn trong sản xuất tại các mỏ lộ thiên.