Năm 2023 là một năm đầy thách thức đối với ngành dệt may trong bối cảnh nhu cầu đối với các sản phẩm dệt may trên thế giới tiếp tục sụt giảm do những khó khăn kinh tế thời hậu dịch COVID-19 và tác động tiêu cực của xung đột Nga-Ukraine khiến người dân ở nhiều nước có xu hướng “thắt lưng buộc bụng”. Tuy nhiên, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã không ngừng nỗ lực để vượt qua khó khăn, tạo ra sự bứt phá cả về thị trường và mặt hàng.
Năm vượt khó của dệt may Việt Nam. Ảnh minh họa: Hồng Đạt – TTXVN
Nỗ lực vượt khó
Theo ước tính của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), năm 2023, tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may ước đạt trên 40 tỷ USD, giảm hơn 9% so với năm 2022 (đạt trên 44 tỷ USD).
Phát biểu tại cuộc họp báo ở Hà Nội hôm 23/11, ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch VITAS, nói: “Mặc dù sụt giảm về xuất khẩu nhưng với những khó khăn trong năm nay, con số này được coi là sự bứt phá và cho thấy nỗ lực rất lớn của cộng đồng doanh nghiệp. Chúng ta bứt phá cả về thị trường và mặt hàng. Chưa năm nào ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu nhiều vào các thị trường 2023 với 104 thị trường vùng lãnh thổ”.
Ông Giang cho biết thêm trong bối cảnh hàng loạt thị trường lớn bị đình trệ, đơn hàng giảm, các doanh nghiệp đã buộc phải tìm kiếm thị trường mới như thị trường châu Phi hay các nước đạo Hồi. Trước đây, thị trường Nga không được quan tâm nhiều nhưng năm nay đã có sự cải thiện. Hay như Bangladesh, mặc dù đây là nước sản xuất dệt may nhưng Việt Nam vẫn xuất khẩu được ở dòng sợi tổng hợp, sợi tái chế… sang thị trường này.
Theo báo cáo của VITAS, Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam, với giá trị xuất khẩu đạt trên 11 tỷ USD. Tiếp theo là các thị trường Nhật Bản (khoảng 3 tỷ USD); Hàn Quốc (2,43 tỷ USD); Liên minh châu Âu (EU) (gần 2,9 tỷ USD). Đây là 4 thị trường trọng điểm hiện nay của ngành dệt may Việt Nam.
Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường khác cũng đạt mức khá cao, trong đó Canada đạt khoảng 850 triệu USD, Trung Quốc 830 triệu USD, Campuchia 612 triệu USD, Vương quốc Anh 503 triệu USD, Australia 351 triệu USD, Nga 283 triệu USD, Indonesia 279 triệu USD. Các thị trường Thái Lan và Hong Kong (Trung Quốc) cũng đạt hơn 200 triệu USD.
Về mặt hàng, các doanh nghiệp đã nỗ lực đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu khi xuất khẩu được 36 mặt hàng may mặc. Trong 9 tháng đầu năm 2023, jacket vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực với kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 4,385 tỷ USD, quần các loại đạt 3,853 tỷ USD, sơ mi 1,879 tỷ USD, đồ lót 1,453 tỷ USD, váy các loại hơn 900 triệu USD, quần áo lao động hơn 800 triệu USD, quần sooc hơn 700 triệu USD, quần áo ngủ 378 triệu USD…
“Việc đa dạng thị trường, đa dạng mặt hàng và khách hàng, đối tác là bước tiến cho việc dệt may Việt Nam giảm phụ thuộc vào những thị trường lớn. Những thị trường trước đây không nhập khẩu thì nay đã nhập khẩu của Việt Nam, tạo vị thế cho Việt Nam trên thị trường toàn cầu”, ông Vũ Đức Giang nhấn mạnh.
Kỳ vọng khởi sắc
Đánh giá về triển vọng năm 2024, ông Vũ Đức Giang nói: “Chúng tôi kỳ vọng năm 2024, thị trường sẽ khởi sắc hơn”. Tuy nhiên, vị Chủ tịch VITAS nhấn mạnh để nắm bắt được cơ hội đó, các doanh nghiệp trong ngành cần thực hiện được 5 biện pháp quan trọng.
Công ty TNHH Công nghệ may mặc Spectre An Giang ở KCN Bình Hoà (An Giang). Ảnh: Vũ Sinh – TTXVN
Trong số này, đáng chú ý có các biện pháp sau: Tiếp tục thực hiện đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa bạn hàng, đa dạng hóa mặt hàng; Phát triển bền vững đi đôi với phát triển theo mục tiêu đòi hỏi toàn cầu về xanh hóa, giảm phát thải nhà kính, tiếp tục đầu tư sâu vào hệ thống nồi hơi đốt điện, giảm việc đốt bằng nhiên liệu hóa thạch; Tập trung cho các giải pháp đầu tư về công nghệ tự động hóa ở một số dây chuyền sản xuất, giao hàng nhanh, mã hàng nhỏ và chất lượng cao; Tập trung cho giải pháp công nghiệp thời trang…
Ông Giang cũng khẳng định cần lấy TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội làm trung tâm công nghiệp thời trang, quy hoạch lĩnh vực này để tạo ra nền công nghiệp thời trang phát triển; trong đó quan tâm, định hình đưa ra chiến lược cho một số nhãn hiệu Việt Nam không chỉ làm chủ ở Việt Nam mà còn đưa ra thị trường thế giới. Từ các trung tâm này, cần xây dựng nguồn lực về phát triển mẫu, thiết kế 3D, công nghệ quản trị số.
Theo ông Giang, hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư nhưng ý tưởng, vận hành và nguồn lực để vận hành vẫn còn thiếu.
Cuối cùng, ngành dệt may Việt Nam đang đi trên con đường có tính mở toàn diện, toàn cầu. Do vậy, ông Giang cho rằng các doanh nghiệp phải tuân thủ và thích ứng nhanh với luật chơi toàn cầu, yêu cầu mới từ các nhãn hàng, trong đó chủ động hơn về phát triển ý tưởng, mẫu mã, chủ động nguyên liệu đầu vào trong sản xuất. Có như vậy dệt may Việt Nam mới hưởng lợi thuế suất bằng 0% từ các hiệp định thương mại tự do./.
Vũ Hoa