Nghề hầm than đước- Dấu ấn trăm năm dưới tán rừng Cà Mau
Nghề hầm than đước, còn được gọi là làm than đước, không chỉ đơn thuần là công việc mưu sinh mà còn là nét văn hóa truyền thống của vùng đất Mũi Cà Mau. Những lò hầm than từ thuở sơ khai đến nay đã trở thành biểu tượng sống động của sức mạnh bền bỉ, của tinh thần vượt khó và sự gắn bó không thể tách rời với rừng ngập mặn – “lá phổi xanh” của miền Tây Nam Bộ.
Với hơn 50.000ha rừng ngập mặn ven biển, trong đó có rừng đước, Cà Mau đã tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú này để phát triển nghề hầm than từ những ngày đầu của thế kỷ XX.
Cây đước với đặc tính chịu nước tốt, thân cây chắc chắn, là nguyên liệu tuyệt vời để sản xuất than chất lượng cao. Hơn trăm năm qua, hàng trăm hộ dân tại các huyện Ngọc Hiển, Năm Căn đã gắn bó với nghề, kiếm sống từ việc sản xuất và tiêu thụ than đước.
Không ai biết chính xác nghề hầm than đước bắt đầu từ khi nào, nhưng theo lời kể của các bậc lão làng, nghề này đã xuất hiện từ khoảng năm 1920 tại Chợ Thủ (nay là xã Tam Giang Tây, huyện Ngọc Hiển). Ban đầu, chỉ có vài lò hầm than thô sơ, nhưng theo thời gian, con số này nhanh chóng tăng lên hàng trăm, rải rác khắp vùng Cà Mau. Than đước khi đó được vận chuyển khắp các tỉnh Nam Kỳ lục tỉnh, góp phần tạo nên thương hiệu nổi tiếng cho vùng đất Mũi.
Những năm tháng nghề hầm than đước phát triển mạnh mẽ cũng là lúc rừng đước bắt đầu bị khai thác quá mức, đe dọa đến hệ sinh thái ngập mặn của Cà Mau. Điều này buộc chính quyền địa phương phải có những biện pháp quản lý và bảo vệ rừng. Năm 2006, các hộ dân làm nghề hầm than được tổ chức lại thành các hợp tác xã, quản lý chặt chẽ việc khai thác và sản xuất than, đồng thời bảo tồn diện tích rừng ngập mặn.
Ông Lê Phước Thân, Giám đốc Hợp tác xã chế biến than Tân Phát ở huyện Ngọc Hiển, là một trong những người tiên phong trong việc bảo vệ và phát triển nghề hầm than bền vững. Ông chia sẻ: “Tôi học nghề từ khi còn trẻ, lúc đó đi bán củi cho các lò làm than ở Phụng Hiệp (Hậu Giang), sau đó về quê lập nghiệp. Nghề hầm than dù trải qua nhiều biến động nhưng nhờ có sự hỗ trợ của chính quyền, chúng tôi vẫn giữ vững và phát triển nghề.”
Theo ông Thân, nghề hầm than đước đòi hỏi nhiều kinh nghiệm và sự tỉ mỉ trong từng khâu. Từ việc chọn nguyên liệu, xây lò đến quy trình đốt than đều phải được thực hiện một cách chính xác để đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Hiện nay, các lò hầm than đã được xây dựng kiên cố hơn, sử dụng gạch thay vì đất như ngày xưa. Mỗi lò cao khoảng 4m, có đường kính từ 5-7m, trông như chiếc nón khổng lồ úp ngược, bên trong chứa đầy những thanh củi đước dài, thẳng tắp.
Hầm than đước Cà Mau – Sự kỳ công của nghề truyền thống
Để có được những mẻ than đước chất lượng cao, người thợ phải trải qua một quy trình sản xuất phức tạp và đòi hỏi sự kiên nhẫn. Trước tiên, những đoạn gỗ đước được cắt sẵn, dài khoảng 4-4,5m, sau đó xếp khít vào lò. Việc xếp gỗ cần phải thật chặt để than thành phẩm được đều và không bị nát. Khi củi đã được chất đầy lò, cửa lò sẽ được bít kín, chỉ chừa lại những lỗ nhỏ để đốt lửa và thoát khói.
Quá trình đốt than kéo dài khoảng một tháng. Trong suốt thời gian này, người thợ phải thường xuyên theo dõi ngọn lửa và màu khói để điều chỉnh nhiệt độ trong lò. Những người thợ lành nghề sẽ nhìn vào màu sắc khói thoát ra để biết khi nào than trong lò đã chín. Khi than đã đạt yêu cầu, lò được bịt kín hoàn toàn để than nguội dần trong khoảng 20 ngày trước khi mở lò và thu hoạch thành phẩm.
Than đước Cà Mau nổi tiếng nhờ chất lượng vượt trội so với các loại than khác. Than cháy lâu hơn, nhiệt lượng cao hơn, được khách hàng ưa chuộng sử dụng trong các nhà hàng, quán nướng. Mỗi kg than đước được sản xuất từ khoảng 5kg gỗ đước thô.
Ở các cơ sở hầm than như hợp tác xã Tân Phát, công việc hầm than được phân chia tùy theo sức lực của người lao động. Phụ nữ thường đảm nhiệm các công đoạn nhẹ nhàng như chất củi, thu hoạch than, trong khi đó nam giới sẽ làm các việc nặng hơn như cưa cây, vác gỗ. Bà Lê Hồng Thắm, một người làm việc tại hợp tác xã đã hơn 6 năm, chia sẻ: “Công việc của tôi là chất củi vào lò và lấy than ra. Tuy có hơi nặng nhọc nhưng làm lâu rồi cũng quen. Nhờ nghề này mà tôi có thu nhập ổn định, không phải đi làm xa.”
Bà Triệu Diệu Linh, một người thợ khác tại huyện Năm Căn, cũng chia sẻ về sự gắn bó của gia đình mình với nghề hầm than đước: “Gia đình tôi đã theo nghề này gần 20 năm. Dù nghề có lúc thịnh, lúc suy nhưng chúng tôi vẫn giữ nghề, xem đây là một di sản quý giá của cha ông.”
Lửa than cháy trong gian khó
Trong những năm gần đây, với sự hỗ trợ của chính quyền và các tổ chức địa phương, nghề hầm than đước dần được khôi phục và phát triển theo hướng bền vững hơn. Các cơ sở hầm than ngày nay hoạt động quy củ, tuân thủ các quy định về bảo vệ rừng và khai thác tài nguyên hợp lý. Nhờ đó, than đước Cà Mau không chỉ được tiêu thụ trong tỉnh mà còn được xuất khẩu sang các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Thuận, thậm chí vươn ra thị trường quốc tế.
Ông Lê Ngọc Lâm, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Ngọc Hiển, cho biết: “Chúng tôi luôn chú trọng phát triển nghề truyền thống, đặc biệt là nghề hầm than đước, nhằm tạo thêm công ăn việc làm cho người dân địa phương. Qua đó, thu nhập của bà con nông dân được cải thiện, đời sống ổn định hơn.”
Than đước Cà Mau không chỉ là sản phẩm thương mại mà còn là biểu tượng của sự bền bỉ, của sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên nơi vùng đất ngập mặn. Hơn trăm năm qua, ngọn lửa từ những lò than đước vẫn bền bỉ cháy, thắp sáng cuộc sống của biết bao thế hệ người dân Cà Mau.
Nghề hầm than đước ở Cà Mau không chỉ là nguồn thu nhập ổn định cho hàng trăm hộ dân mà còn là một phần không thể thiếu trong văn hóa và lịch sử của vùng đất Mũi. Qua bao thăng trầm, nghề hầm than vẫn tồn tại và phát triển, trở thành một biểu tượng của sự kiên cường, vượt khó của người dân nơi đây. Ngọn lửa truyền thống ấy sẽ tiếp tục cháy mãi, không chỉ trong những lò than mà còn trong trái tim của những người dân Cà Mau.
Nguồn: https://danviet.vn/mot-loai-cay-song-khoe-chac-trong-rung-ngap-man-dan-ca-mau-cua-khuc-dem-nuong-thanh-than-20241005213911334.htm