Phát triển mạng lưới dịch vụ trợ giúp xã hội đối với trẻ em, người khuyết tật và người cao tuổi có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Đổi mới việc huy động nguồn lực xã hội, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trợ giúp xã hội, cứu trợ khẩn cấp. Hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng sinh kế, từng bước nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống lâu dài cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Với cơ cấu mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội của cả nước đến năm 2030 đạt tối thiểu 725 cơ sở công lập và ngoài công lập gồm tối thiểu 90 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người cao tuổi; tối thiểu 94 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí; tối thiểu 130 cơ sở cai nghiện ma túy; tối thiểu 130 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; tối thiểu 117 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người khuyết tật; tối thiểu 164 cơ sở bảo trợ xã hội tổng hợp và trung tâm công tác xã hội.
Cụ thể vùng Trung du và miền núi phía Bắc có tối thiểu 129 cơ sở công lập và ngoài công lập, trong đó bao gồm: 19 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người cao tuổi; 19 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí; 25 cơ sở cai nghiện ma túy công lập; 17 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; 20 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người khuyết tật; 29 cơ sở bảo trợ xã hội tổng hợp và trung tâm công tác xã hội.
Vùng Đồng bằng sông Hồng có tối thiểu 151 cơ sở công lập và ngoài công lập, gồm 18 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người cao tuổi; 20 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí; 30 cơ sở cai nghiện ma túy; 24 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; 23 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người khuyết tật; 36 cơ sở bảo trợ xã hội tổng hợp và trung tâm công tác xã hội.
Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có tối thiểu 169 cơ sở công lập và ngoài công lập, trong đó gồm 21 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người cao tuổi; 23 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí; 25 cơ sở cai nghiện ma túy công lập; 30 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; 27 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người khuyết tật; 43 cơ sở bảo trợ xã hội tổng hợp và trung tâm công tác xã hội.
Vùng Tây Nguyên có tối thiểu 43 cơ sở công lập và ngoài công lập, gồm 06 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người cao tuổi; 06 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí; 08 cơ sở cai nghiện ma túy; 08 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; 05 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người khuyết tật; 10 cơ sở bảo trợ xã hội tổng hợp và trung tâm công tác xã hội.
Vùng Đông Nam Bộ có tối thiểu 131 cơ sở công lập và ngoài công lập, gồm 12 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người cao tuổi; 10 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí; 27 cơ sở cai nghiện ma túy; 36 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; 28 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người khuyết tật; 18 cơ sở bảo trợ xã hội tổng hợp và trung tâm công tác xã hội.
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có tối thiểu 102 cơ sở công lập và ngoài công lập, gồm 14 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người cao tuổi 16 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí; 15 cơ sở cai nghiện ma túy; 15 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; 14 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người khuyết tật; 28 cơ sở bảo trợ xã hội tổng hợp và trung tâm công tác xã hội.
Cùng với đẩy mạnh truyền thông về chủ trương, chính sách, cơ chế, đặc biệt là chủ trương, cơ chế, chính sách xã hội hóa nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước; khuyến khích phát triển các hình thức chăm sóc thay thế tại cộng đồng và các mô hình cung cấp dịch vụ nuôi dưỡng, chăm sóc xã hội ngoài công lập để giảm tải áp lực đối với hệ thống cơ sở xã hội công lập và đáp ứng tối đa nhu cầu của người được trợ giúp xã hội.
Đặc biệt là đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và trang thiết bị cho cơ sở trợ giúp xã hội đạt tiêu chuẩn chăm sóc theo quy định của pháp luật, bảo đảm có các phân khu chức năng, các hạng mục công trình đáp ứng hoạt động chăm sóc, phục hồi chức năng, trị liệu, cung cấp dịch vụ công tác xã hội và đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường.
Cùng đa dạng hoá mô hình, cơ chế hoạt động của các cơ sở trợ giúp xã hội hoặc cai nghiện theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, được nhà nước đặt hàng theo khung giá dịch vụ do cơ quan có thẩm quyền quy định và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan; bảo đảm cơ sở trợ giúp xã hội hoạt động với các hình thức hiệu quả, tích hợp và kết nối cơ sở trợ giúp xã hội với các cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, y tế, các dịch vụ phúc lợi khác và cộng đồng.
Minh Tuệ