Việt Nam vừa trải qua một năm với nhiều hoạt động ngoại giao cấp cao, bao gồm việc nâng cấp quan hệ với cả Mỹ lẫn Nhật Bản lên tầm “đối tác chiến lược toàn diện”.
Sau khi kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và ký kết thỏa thuận nâng cấp Hiệp định thành lập Khu vực thương mại tự do ASEAN-Australia-New Zealand (ASEAN-Australia-New Zealand Free Trade Area gọi tắt là AANZFTA) hồi tháng 8 năm ngoái, Australia dự kiến sẽ là “đối tác chiến lược toàn diện” tiếp theo của Việt Nam.
Thực tế, Chính phủ hai nước đã liên tục công bố ý định phát triển quan hệ lên tầm cao mới. Tuần này, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có chuyến thăm chính thức tới Australia, đồng thời tham dự hội nghị cấp cao đặc biệt kỷ niệm 50 năm quan hệ đối thoại ASEAN – Australia cùng với lãnh đạo các nước ASEAN khác.
Từ cung cấp các loại hàng hóa nguyên liệu thô chính cho Việt Nam đến khai mở lĩnh vực hợp tác mới, Australia đóng một vai trò không nhỏ trong câu chuyện tăng trưởng của Việt Nam, theo một báo cáo do Bộ phận Nghiên cứu Toàn cầu HSBC phát hành gần đây.
Báo cáo “Việt Nam và Australia: Sẵn sàng một giai đoạn mới” của HSBC chỉ ra rằng, một khi hai bên trở thành “đối tác chiến lược toàn diện” của nhau, có những hướng đi tiềm năng cho quan hệ song phương đang chờ đợi ở phía trước.
Đầu tiên, thương mại song phương Việt Nam – Australia đã bùng nổ trong một thập kỷ qua, tăng hơn gấp đôi lên 13,8 tỷ USD trong năm 2023. Mặc dù vậy, một phần gia tăng trong giá trị thương mại kể từ đại dịch đến từ giá hàng hóa nguyên liệu thô thế giới tăng cao. Cụ thể, hai mặt hàng tăng nhiều nhất là than đá và bông sợi.
Việt Nam hiện đang là thị trường xuất khẩu bông sợi đơn lẻ lớn nhất của Australia, chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu bông sợi của nước này, gấp đôi thị phần năm 2020. Tương tự, Australia chiếm gần 40% kim ngạch nhập khẩu bông sợi của Việt Nam.
Mặc dù xét về tỉ trọng trong tổng xuất khẩu (15%), ngành dệt may của Việt Nam đã chứng kiến thị phần sụt giảm trong những năm gần đây trong khi hàng điện tử lại tăng lên 35%, đây vẫn được coi là một thuận lợi đối với các nhà xuất khẩu bông sợi Australia.
Mặc dù vậy, sự bùng nổ trong thương mại không chỉ diễn ra trong lĩnh vực sản xuất. Sự gia tăng lớn trong chi tiêu tùy ý hộ gia đình cũng đã kích thích nhu cầu đối với một số mặt hàng xuất khẩu từ Australia. Cụ thể, xuất khẩu thịt bò của Australia đã bùng nổ nhờ xóa bỏ nhiều dòng thuế theo hiệp định AANZFTA trong năm 2018.
Điểm đáng khích lệ hơn chính là tiềm năng tiêu thụ thịt bò của Việt Nam. Theo OECD-FAO, đến năm 2030, lượng tiêu thụ thịt bò trên đầu người của Việt Nam được dự báo sẽ cao nhất trong ASEAN, mở ra cơ hội tăng cường các dòng chảy thương mại.
Ở chiều ngược lại, xuất khẩu của Việt Nam sang Australia cũng đang gia tăng. Nông sản là mặt hàng đang dẫn đầu, trong đó các loại hạt và thủy sản chiếm phần lớn. Ví dụ, hạt điều nhập khẩu vào Australia phần lớn đến từ Việt Nam. theo dữ liệu của ITC.
Nhằm tận dụng hơn nữa các hiệp định thương mại giữa hai quốc gia như AANFTA, CPTPP và RCEP, các chuyên gia của HSBC chỉ ra trong báo cáo rằng điều quan trọng không kém là Việt Nam phải nâng cao kiểm soát chất lượng đối với xuất khẩu nông sản, đặc biệt trong bối cảnh tiêu chuẩn chất lượng và quy định của Australia ngặt nghèo hơn cả Mỹ và EU trong một số mảng.
Hiện tại, chỉ có 4 loại trái cây tươi được tiếp cận thị trường Australia gồm xoài, thanh long, vải và nhãn, nhưng đó cũng là dấu hiệu cho thấy còn nhiều cơ hội lớn để mở rộng thị trường.
Thứ hai, dịch vụ cũng là một lĩnh vực đáng xem xét, mặc dù tốc độ còn chậm. Năm ngoái, ASEAN đón 4 triệu khách du lịch từ Australia nhưng chưa tới 10% trong số này đến Việt Nam. Một phần nguyên nhân có thể liên quan đến thị thực vì khách Australia đến Việt Nam chưa được miễn thị thực và vẫn tồn tại tình trạng hạn chế số lượng chuyến bay.
Điểm đáng khích lệ là Việt Nam đang xem xét mở rộng danh sách miễn thị thực cũng như giới thiệu đường bay mới. Đây đều là những sáng kiến quan trọng vì du khách Australia thường có khuynh hướng nghỉ dài ngày và chi tiêu trong các kỳ nghỉ.
Thứ ba, liên quan đến đầu tư, Việt Nam có trữ lượng đất hiếm lớn thứ hai thế giới mà phần lớn chưa được khai thác. Các doanh nghiệp Australia có chuyên môn trong ngành khai thác mỏ và chế biến cũng đang tìm cách nắm bắt cơ hội, với dòng vốn FDI ổn định đổ vào ngành này ở ASEAN nói chung.
Riêng đối với Việt Nam, một ví dụ minh họa chính là Blackstone Minerals, doanh nghiệp đang có 2 dự án lớn ở tỉnh Sơn La, bao gồm một dự án thăm dò khai thác và một dự án chế biến sâu tinh quặng Niken.
Bên cạnh các khoáng sản quan trọng, vai trò của Australia như một nhà cung cấp năng lượng chính cho Việt Nam tạo cho quốc gia này một vị thế chiến lược có thể giúp thúc đẩy tiến trình chuyển dịch năng lượng của Việt Nam. Theo đó, Chính phủ Australia đã cam kết cung cấp khoản hỗ trợ trị giá 105 triệu đô Úc (AUD) cho Việt Nam trong lĩnh vực này.
Ngoài thương mại và FDI, các hình thái hợp tác khác cũng quan trọng không kém, theo báo cáo của HSBC. Trong khi Indonesia từ lâu vẫn là quốc gia chính tiếp nhận nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), Việt Nam cũng chứng kiến dòng ODA từ Australia phát triển ổn định, báo cáo cho biết.
Trong lĩnh vực nguồn nhân lực, hai bên cũng có liên kết chặt chẽ. Australia từ lâu đã tạo dựng một cột mốc về giáo dục khi thành lập trường đại học quốc tế có vốn đầu tư nước ngoài đầu tiên ở Việt Nam (Đại học RMIT) từ năm 2000.
Trong khuôn khổ cam kết đối với Việt Nam, Học viện Công nghệ Hoàng gia Melbourne (Royal Melbourne Institute of Technology, gọi tắt là RMIT) tại Việt Nam đã tiếp nhận thêm khoản đầu tư trị giá 250 triệu đô Úc năm ngoái, góp phần khai trương Trung tâm Đổi mới Sáng tạo nhằm hỗ trợ nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động.
Trong nhiều năm qua, Australia đã đóng một vai trò trong câu chuyện tăng trưởng của Việt Nam. Trong tương lai, những cơ hội xuất phát từ nhu cầu mới sẽ là nền tảng cho một trang mới trong quan hệ Việt Nam – Autralia, báo cáo của HSBC kết luận.
Minh Đức