Đóng góp ý kiến hoàn thiện dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), đại biểu Quốc hội Trần Thị Vân – Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh quan tâm đến các chính sách hỗ trợ nghệ nhân được quy định tại Điều 13 của dự thảo luật. Theo đại biểu, nghệ nhân được ví như là báu vật nhân văn sống, sợi dây lưu giữ các yếu tố văn hóa dân gian và là người giữ lửa cho di sản.
Tuy nhiên, Luật Di sản văn hóa năm 2001 chưa quy định chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân và đến năm 2009 luật sửa đổi, bổ sung một số điều, trong đó khoản c Điều 26 có quy định “trợ cấp sinh hoạt hằng tháng và ưu đãi đối với nghệ nhân đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu có thu nhập thấp và hoàn cảnh khó khăn”.
Đến năm 2015, Chính phủ đã ban hành được Nghị định 109, trong đó quy định về hỗ trợ đối với nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú nhưng phải thuộc đối tượng là thu nhập thấp hay có hoàn cảnh khó khăn. Theo báo cáo tổng kết thi hành luật, từ khi ban hành đến nay thì chỉ có 20/1.881 nghệ nhân được phong tặng được hưởng chế độ này và không có nghệ nhân dân gian nào trong số 747 nghệ nhân dân gian được hỗ trợ, vì họ không thuộc đối tượng trong Nghị định 109.
Nêu câu chuyện tại địa phương mình, đại biểu Trần Thị Vân cho biết, Bắc Ninh là tỉnh có số lượng lớn các di tích. Ngoài 1.589 di tích, 651 di tích được xếp hạng, 14 hiện vật là bảo vật quốc gia thì Bắc Ninh còn có 49 di sản văn hóa phi vật thể, trong đó 8 di sản được đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, 4 di sản được UNESCO ghi danh, như dân ca quan họ Bắc Ninh, ca trù, tín ngưỡng thờ Mẫu, v.v..
Theo đại biểu, một trong các giải pháp để bảo tồn và phát huy các di sản quý báu này của tỉnh Bắc Ninh đó là tiên phong trong việc thực hiện các chế độ đãi ngộ đối với nghệ nhân. Bắc Ninh hiện nay có 203 nghệ nhân được tôn vinh, trong đó có 10 nghệ nhân nhân dân, 42 nghệ nhân ưu tú được Nhà nước tôn vinh và 151 nghệ nhân được tỉnh phong tặng.
Từ năm 2015, Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết 2013 quy định về các chính sách để nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản, theo đó, đối với nghệ nhân nhân dân được hưởng trợ cấp hằng tháng bằng 2 lần mức lương cơ sở, nghệ nhân ưu tú là 1,5 lần và nghệ nhân do tỉnh phong tặng được hưởng 1 lần mức lương cơ sở một tháng, ngoài ra, mỗi nghệ nhân còn được hỗ trợ bảo hiểm y tế và chế độ mai táng phí bằng 10 lần mức lương cơ sở như đối với cán bộ, công chức.
“Có thể nói, sau gần 10 năm thực hiện chính sách này, Bắc Ninh đã và đang phát huy được tài năng của các nghệ nhân, khuyến khích họ trao truyền, cống hiến, lan tỏa, giữ gìn và bảo tồn di sản” – đại biểu nhấn mạnh.
Cũng theo nữ đại biểu, tại dự thảo luật lần này đã tiếp thu và bổ sung các chính sách phù hợp, mạnh mẽ hơn để tôn vinh và có các chế độ đãi ngộ đối với nghệ nhân. Do đó, đại biểu hoàn toàn đồng tình với việc bổ sung quy định về chính sách đãi ngộ đối với tất cả các nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 13 dự thảo luật mà không bị hạn chế bởi quy định với nghệ nhân có thu nhập thấp hoặc hoàn cảnh khó khăn như luật hiện hành.
Ngoài ra, đại biểu Trần Thị Vân cũng đề nghị bổ sung nghệ nhân dân gian vào đối tượng được hưởng chính sách cùng với nghệ nhân nhân dân và nghệ nhân ưu tú, bởi nếu chỉ quy định như trên thì chỉ mới có nghệ nhân nhân dân và nghệ nhân ưu tú được hỗ trợ mà chưa đề cập đến chính sách đối với nghệ nhân dân gian.
Trong khi nghệ nhân dân gian là danh hiệu cao quý của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, được Hội xét duyệt rất kỹ lưỡng và trao cho những người có thành tích trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa ở nhiều các lĩnh vực khác nhau, từ năm 2003 đến nay, sau hơn 20 năm, Hội mới xét tặng và phong tặng cho 747 nghệ nhân.
Bên cạnh đó, đại biểu cũng đề nghị nên cân nhắc khi quy định số tiền cụ thể mức hỗ trợ các nghệ nhân tại Điều 17, Điều 18, Điều 19 trong dự thảo nghị định trình kèm với hồ sơ dự án luật thay vì mức hỗ trợ đối với nghệ nhân nhân dân là 2 triệu đồng, nghệ nhân ưu tú là 1,5 triệu đồng/tháng và chế độ mai táng phí là 10 triệu đồng/người thì nên quy định mức hỗ trợ tối thiểu đối với nghệ nhân dân là 1,5 lần mức lương cơ sở, nghệ nhân ưu tú là 1 lần và nghệ nhân dân gian là 0,7 lần và chế độ mai táng phí là 5 lần mức lương cơ sở để vừa đảm bảo tính ổn định lâu dài.
“Như vậy, vừa đảm bảo mức hỗ trợ phù hợp, xứng đáng đối với các nghệ nhân, khích lệ họ thêm yêu nghề, truyền nghề, khích lệ lớp nghệ nhân kế cận là những người trẻ tích cực hơn tham gia trong việc bảo toàn và phát huy giá trị của di sản” – đại biểu nêu quan điểm.
Thành lập Quỹ bảo tồn di sản văn hóa là hết sức cần thiết
Cùng góp ý vào dự thảo Luật, đại biểu Quốc hội Trần Văn Thức – Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa bày tỏ sự tán thành với việc thành lập Quỹ bảo tồn di sản văn hóa. Theo đại biểu, trong điều kiện nguồn vốn ngân sách đầu tư cho văn hóa nói chung, di sản văn hóa nói riêng còn có nhiều khó khăn, hạn hẹp thì việc thành lập quỹ này là hết sức cần thiết.
Thực tiễn vừa qua khi thực hiện giám sát tại các địa phương đối với chuyên đề của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về đổi mới hệ thống tổ chức, quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập giai đoạn 2018-2023 cũng cho thấy ngay trong cơ chế, chính sách bảo đảm cho các đơn vị thuộc ngành văn hóa là hết sức khó khăn.
“Dự thảo luật quy định việc thành lập Quỹ bảo tồn di sản văn hóa chính là một trong những giải pháp theo chúng tôi là hữu hiệu để huy động nguồn lực đầu tư cho di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu thực tiễn đang đặt ra” – đại biểu bày tỏ.