“Cây có gốc. Nước có nguồn. Chim tìm tổ. Người tìm tông”. Trải mấy nghìn năm, với bao biến động thăng trầm, trong tâm thức của cả dân tộc, Đền Hùng vẫn là nơi của bốn phương tụ hội, nơi con cháu phụng thờ công đức tổ tiên.
Niềm tin về cội nguồn xứ sở
Bất kỳ dân tộc nào trên thế giới đều có nguồn cội của mình nhưng hiếm có quốc gia nào, dân tộc nào có một tín ngưỡng với Quốc Tổ như người Việt. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được tụ nguồn từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên truyền thống của dân tộc Việt Nam với triết lý “con người có tổ có tông” và “uống nước nhớ nguồn” được trao truyền từ đời này sang đời khác, trở thành nghi lễ dân gian mang tính quốc gia. Cũng chính vì sự độc đáo và đặc biệt ấy mà tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào ngày 6/12/2012 và trở thành một hiện tượng xã hội mang bản sắc riêng của Việt Nam; góp phần tạo ra hệ giá trị tinh thần và bản lĩnh văn hóa Việt Nam.
Theo truyền thuyết, vị vua đầu tiên của vùng đất Việt là Kinh Dương Vương đã truyền ngôi cho con trai là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ, sinh hạ được 100 người con trai, 50 người con theo mẹ lên núi và 50 người con theo cha xuống biển để lập cơ nghiệp dài lâu. Con trai trưởng được Lạc Long Quân phong làm Vua, lấy hiệu là Hùng Vương. Vua đặt tên nước là Văn Lang lấy đất Phong Châu (Phú Thọ) làm thủ phủ. Vua quan đều cha truyền con nối qua nhiều đời nhưng lịch sử ghi lại được 18 đời vua Hùng.
Trong tâm thức của người Việt, Đền Hùng vẫn là nơi của bốn phương tụ hội, nơi con cháu phụng thờ công đức tổ tiên.
Để tôn vinh thời kỳ khai thiên lập quốc và tỏ lòng biết ơn công lao của các vị anh hùng có công dựng nước, từ thời phong kiến, các vị vua đã cho lập đền thờ vua Hùng. Theo Bản ngọc phả viết thời Trần, năm 1470 đời vua Lê Thánh Tông và đời vua Lê Kính Tông năm 1601 sao chép đóng dấu kiềm để tại Đền Hùng, nói rằng: “… Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi…”.
Đến đời nhà Nguyễn vào năm Khải Định thứ hai (1917), Tuần phủ Phú Thọ Lê Trung Ngọc đã trình bộ Lễ định ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm làm ngày Quốc tế (Quốc lễ, Quốc giỗ). Điều này được tấm bia Hùng Vương từ khảo do Tham tri Bùi Ngọc Hoàn, Tuần phủ tỉnh Phú Thọ, lập năm Bảo Đại thứ 15 (1940) cũng đang đặt ở Đền Thượng trên núi Nghĩa Lĩnh xác nhận. Kể từ đây, Giỗ Tổ Hùng Vương ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm được chính thức hóa bằng luật pháp.
Kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất là đạo đức “uống nước nhớ nguồn”, ngay sau cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh của Chủ Tịch nước số 22/SL – CTN ngày 18/2/1946 cho công chức nghỉ ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm để tham gia tổ chức các hoạt động Giỗ Tổ Hùng Vương – hướng về cội nguồn dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã có hai lần về thăm Đền Hùng (19/9/1954 và 19/8/1962). Tại đây Người đã dặn dò: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước – Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Người còn nhắc: “Phải chú ý bảo vệ, trồng thêm hoa, thêm cây cối để Đền Hùng ngày càng trang nghiêm và đẹp đẽ, thành công viên lịch sử cho con cháu sau này đến tham quan”. Lời nhắn nhủ này của Bác đã trở thành lời kêu gọi thiêng liêng trong lòng mỗi người Việt Nam, cùng nhau gìn giữ và phát huy giá trị của truyền thống lịch sử và văn hóa của Đất Tổ, nơi Đền Hùng là biểu tượng.
Cùng với sự phát triển của đất nước qua mấy nghìn năm lịch sử, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã trở thành một loại hình sinh hoạt văn hóa đặc sắc trong đời sống tâm linh của dân tộc Việt Nam. Về nơi thờ Tổ tiên của dân tộc không chỉ là về với cội nguồn mà còn là cuộc hành hương về với đức tin truyền thống, sự linh thiêng huyền diệu của Tổ tiên, của hồn thiêng sông núi. Cũng chính nhờ có đức tin và sự tôn thờ bất diệt trong tâm thức của mỗi người con đất Việt đối với tổ tiên ông bà, cha mẹ đến các Vua Hùng, mà trong các thời kỳ lịch sử, sức mạnh của dân tộc đã được nhân lên gấp bội. Vượt qua mọi khó khăn, thử thách, dân tộc Việt Nam vẫn tồn tại và không ngừng phát triển.
Giá trị nhân văn trong thời đại mới
Xét trên phương diện văn hoá tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, mà nguồn cội là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thể hiện tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, hiếu kính với tổ tiên, giống nòi, ông bà, cha mẹ. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là hình thức thể hiện niềm tin của người dân vào sự hiện diện của các Vua Hùng; là tín ngưỡng cơ bản, phổ biến, đáp ứng nhu cầu tâm linh của người Việt Nam trong nước và Việt kiều ở nước ngoài; khẳng định người Việt có chung một thủy tổ, nguồn gốc – đó là “sợi chỉ đỏ” tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam trong suốt những chặng đường lịch sử của mình.
Lễ rước kiệu về Đền Hùng của các địa phương vùng ven Khu di tích lịch sử Đền Hùng.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương của người Việt Nam là sợi dây kết nối quá khứ, hiện tại, tương lai và liên tục được bồi đắp qua nhiều thế hệ. Chính vì lẽ đó mà tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng có sức sống lâu bền, sự lan tỏa rộng khắp trong cộng đồng người Việt. Đó cũng là sức mạnh cội nguồn, quy tụ được sự đoàn kết các thế hệ người dân Việt Nam sinh sống ở mọi miền đất nước, kể cả kiều bào ta ở nước ngoài tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Người Việt có câu: “Con người có tổ có tông/Như cây có cội, như sông có nguồn”. Dân tộc Việt Nam muôn đời tự hào mình là con rồng cháu tiên, con cháu Vua Hùng. Người Việt dù đi khắp thế giới nhưng trong tâm linh của họ luôn có một ngôi nhà chung để quay về, chính là quê cha đất tổ. Việc thờ cúng các Vua Hùng đã ăn sâu, lan tỏa rộng khắp, nơi đâu có người Việt sinh sống là có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên – thờ các Vua Hùng. Các di tích và địa điểm thờ tự Vua Hùng ở khắp nơi luôn được người Việt bảo tồn, gìn giữ và xây dựng. Những không gian Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ấy chính là bằng chứng sinh động, đầy sức thuyết phục về sự bảo lưu và phát triển của Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trong cộng đồng người Việt.
Với những giá trị văn hóa được vun đắp qua nhiều thế hệ, trải qua mấy nghìn năm lịch sử, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương không những trở thành biểu tượng của tinh thần dân tộc, là cội nguồn của sức mạnh mà ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành chiếc cầu nối hữu hình cho niềm tin, niềm tự hào về quá khứ hào hùng của dân tộc.
Hiểu và thành kính với cội nguồn dân tộc, không chỉ để chúng ta tự hào về nguồn gốc con rồng cháu tiên, mà còn ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của thế hệ hôm nay trong việc vun đắp, kế thừa và phát huy các di sản của thời đại Vua Hùng và các thế hệ tiền nhân để lại. Giáo dục ý thức về tổ tiên, về lòng tự hào dân tộc cũng chính là những tiền đề, cơ sở hình thành lòng nhân ái, đạo đức cộng đồng, nhắc nhở mỗi cá nhân hành động theo các chuẩn mực xã hội. Thông qua đó khơi dậy lòng tự tôn, tự hào dân tộc, nêu cao ý nghĩa của tinh thần yêu nước thương nòi, biết ơn công lao gây dựng đất nước, được Nhân dân ghi nhận và tôn thờ./.