Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) vừa có văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ nêu lên một số vướng mắc trong quá trình triển khai các dự án điện khí LNG tại Quy hoạch Điện VIII.
Theo EVN, trong giai đoạn vừa qua, EVN với vai trò là đơn vị mua điện đã và đang thực hiện đàm phán Hợp đồng mua bán điện (PPA) với một số chủ đầu tư dự án LNG. Đồng thời, EVN cũng nhận được nhiều kiến nghị, đề xuất của các chủ đầu tư dự án còn lại liên quan đến các điều kiện để triển khai đầu tư loại hình nhà máy điện này.
Theo EVN, doanh nghiệp này đã đàm phán hợp đồng mua bán điện (PPA) với dự án điện khí Nhơn Trạch 3 và 4, bắt đầu đàm phán với Nhà máy Điện khí Hiệp Phước.
Tuy nhiên, qua quá trình làm việc, EVN cho biết có một số vướng mắc, cần được xử lý sớm để tránh ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện đầu tư các nguồn điện khí LNG tại Quy hoạch điện VIII.
Theo EVN, do giá thị trường điện không ổn định, trong quá trình đàm phán PPA, các chủ đầu tư dự án điện khí LNG luôn đề nghị EVN thống nhất tỉ lệ điện năng qua hợp đồng mua bán điện dài hạn ở mức từ 72% – 90% trong toàn bộ thời hạn hợp đồng.
Các bên cung ứng và vận chuyển nhiên liệu LNG cũng thường yêu cầu quy định tỉ lệ huy động để đảm bảo ổn định về lượng và giá nhiên liệu trong dài hạn. Việc này giúp họ lên kế hoạch vận tải đường biển quốc tế, đặc biệt khi Việt Nam là thị trường mới và nhỏ với các nhà cung ứng LNG quốc tế.
Tuy nhiên, EVN cho rằng chấp thuận điều kiện này sẽ gây rủi ro làm tăng giá điện. Trong đó, LNG có giá thành cao, ở mức 12-14 USD một triệu BTU (một đơn vị năng lượng) khi nhập khẩu về đến cảng của Việt Nam. Theo đó, giá thành phát điện của nhà máy điện khí sử dụng nhiên liệu LNG nhập khẩu sẽ ở mức 2.400-2.800 đồng một kWh, cao hơn nhiều so với các nguồn điện khác.
Đồng thời, theo Quy hoạch điện VIII, dự kiến đến năm 2030, tổng công suất các nguồn điện khí LNG chiếm khoảng 15% tổng công suất nguồn điện quốc gia. Với giá thành phát điện cao, độ biến động lớn, cùng yêu cầu cam kết sản lượng dài hạn như trên, chi phí mua điện đầu vào của EVN sẽ bị ảnh hưởng lớn, tác động mạnh đến giá bán lẻ điện đầu ra khi các nguồn điện LNG này vào vận hành.
“Việc chấp thuận tỷ lệ ở mức cao như đề nghị của các chủ đầu tư sẽ tạo rủi ro tài chính với EVN, đặc biệt là những năm có nhu cầu sử dụng điện không cao”, EVN cho biết.
Theo Quy hoạch điện VIII đến năm 2030, nguồn nhiệt điện khí trong nước và khí hóa lỏng (LNG) sẽ đạt hơn 37.000 MW, tương ứng gần 25% tổng công suất nguồn điện. Trong đó, điện khí hóa lỏng (LNG) khoảng 24.000 MW, chiếm khoảng 15%.
Cũng theo quy hoạch này, tới năm 2030 sẽ có 13 dự án điện khí LNG được phát triển, song đều không theo kịp với tiến độ đề ra. Hiện, mới có nhiệt điện Nhơn Trạch 3 và 4, tổng công suất 1.500 MW đang thi công, dự kiến vận hành cuối năm sau và giữa 2025.
Theo tính toán của EVN, đến 2023, trường hợp các nguồn điện khí không vận hành đúng tiến độ sẽ ảnh hưởng tới cung ứng điện. Sản lượng điện thiếu hụt kể từ 2028 khoảng 800-1,2 tỉ kWh. Trường hợp nhu cầu tăng cao có thể dẫn tới thiếu hụt tới 3 tỉ kWh mỗi năm sau 2030.
Để tránh nguy cơ thiếu điện, EVN cho rằng xác định rõ một tỷ lệ điện năng qua hợp đồng dài hạn nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích các bên là cần thiết.
Do đó, EVN này kiến nghị Thủ tướng quyết định tỉ lệ ở mức phù hợp trong giai đoạn trả nợ của dự án. Điều này nhằm đảm bảo khả thi trong thu hút đầu tư các dự án điện khí LNG, tránh tác động mạnh lên giá bán lẻ và đảm bảo cạnh tranh bình đẳng giữa các loại hình nguồn khác.
“Mức này cần được quyết định bởi cơ quan nhà nước, để áp dụng chung cho các dự án”, EVN nêu, đề xuất con số này có thể khoảng 65%.