Có thể bị xử lý hình sự
Các hành vi có thể thuộc trường hợp bị cấm theo quy định của Luật An ninh mạng, Luật An toàn thông tin mạng như sau:
– Sử dụng không gian mạng để thực hiện hành vi: Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế – xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác (điểm d khoản 1 điều 8 Luật An ninh mạng).
– Thông tin trên không gian mạng có nội dung làm nhục, vu khống bao gồm: Thông tin bịa đặt, sai sự thật xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.
– Thông tin trên không gian mạng có nội dung xâm phạm trật tự quản lý kinh tế bao gồm: Thông tin bịa đặt, sai sự thật về sản phẩm, hàng hóa, tiền, trái phiếu, tín phiếu, công trái, séc và các loại giấy tờ có giá khác (điểm b khoản 3, điểm a khoản 4 điều 16 Luật An ninh mạng).
– Can thiệp, truy nhập, gây nguy hại, xóa, thay đổi, sao chép và làm sai lệch thông tin trên mạng trái pháp luật (khoản 1 điều 7 Luật An toàn thông tin mạng). Tùy tính chất, mức độ vi phạm mà người thực hiện hành vi vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Người thực hiện hành vi như: Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân;
Cung cấp, chia sẻ thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân… có thể bị áp dụng biện pháp bảo vệ an ninh mạng; bị xử phạt vi phạm hành chính từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng và buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật mà mình đã đăng (khoản 1, khoản 3 điều 101 nghị định 15/2020/NĐ-CP được sửa đổi bởi khoản 37 điều 1 nghị định 14/2022/NĐ-CP).
Nếu tính chất mức độ của hành vi vi phạm là nghiêm trọng thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một trong các tội danh như:
– Tội làm nhục người khác với mức hình phạt cao nhất lên đến 5 năm tù.
– Tội vu khống với mức hình phạt cao nhất lên đến 7 năm tù.
– Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông với mức hình phạt cao nhất lên đến 7 năm tù.
– Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân với mức hình phạt cao nhất lên đến 7 năm tù (điều 155, điều 156, điều 288, điều 331 Bộ luật Hình sự).